Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 214/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 214/2023/HS-ST NGÀY 06/09/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 9 năm 2023, tại Tòa án nhân dân quận B, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 241/2023/TLST-HS, ngày 27 tháng 7 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 299/2023/QĐXXST-HS, ngày 24 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Phan Vũ T, sinh năm 1998, tại tỉnh S. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp H, xã B, huyện K, tỉnh S; nơi ở: Căn hộ Chung cư C, số F, đường K, phường A, quận B, Thành phố H; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn T1 và bà Trần Thị Ú; có vợ và 01 con sinh năm 2023; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ ngày 02-4-2023 (tính theo Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường A, quận B lập lúc 20 giờ ngày 02-4-2023 và kết thúc lúc 21 giờ 40 phút cùng ngày), tạm giam ngày 09-4-2023 “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 02/4/2023, Đội Cảnh sát Điều tra Tội phạm về Ma túy-Công an quận B cùng với Công an phường A tiến hành kiểm tra hành chính Căn hộ Chung cư c, số F, đường K, phường A, quận B do chị Nguyên Thị Như Ý đứng tên trong hợp đồng thuê dùm cho Phan Vũ T để ở. Qua kiểm tra, đã phát hiện và thu giữ trong kệ tủ cạnh đầu giường trong phòng ngủ có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, trong ngăn kéo giường có 01 gói nylon bên trong có 09 viên nén màu nâu và 02 gói nylon chứa tinh thể không màu. Lúc này, T cho biết đó là ma túy để sử dụng nên đưa T và vật chứng đến Công an phường A xử lý người có hành vi phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định rồi chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Tại đây, T đã khai nhận: Bản thân nghiện ma túy nên vào khoảng 19 giờ ngày 01/4/2023, T gọi điện thoại cho tên P (không rõ lai lịch) qua mạng xã hội Z hỏi mua số ma túy trên, tên P báo giá 2.000.000 đồng và giao ma túy cho T tại nhà chờ xe buýt trước cổng Bến xe M. Theo hẹn, T đến nhận số ma túy này và trả tiền rồi mang về cất tại Căn hộ Chung cư C để dành sử dụng dần thì bị kiểm tra phát hiện bắt giữ. Theo kết luận giám định: 03 gói nylon chứa tinh thể không màu đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 3,7011g, loại Ketamine và 09 viên nén màu nâu đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 4,4074g, loại MDMA (so với mức tối thiểu của từng chất quy định tại khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 có tỷ lệ là 106,6535% nên tính mức tối thiểu của từng chất quy định tại khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 có tỷ lệ là 18,3924%. Do đó, căn cứ vào quy định tại Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP, ngày 02/02/2018 của Chính phủ thì T phải chịu trách nhiệm hình sự tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015).

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan Vũ T đã khai nhận: Do nghiện ma túy nên đến nhà chờ xe buýt trước cổng Bến xe M mua 03 gói nylon chứa tinh thể không màu và 09 viên nén màu nâu là ma túy của tên P (không rõ lai lịch) với giá 2.000.000 đồng (do gọi điện thoại cho tên này đặt mua trước) rồi mang về cất tại Căn hộ Chung cư C để dành sử dụng dần thì bị kiểm tra phát hiện bắt giữ. Riêng chị Nguyễn Thị Như Ý chỉ là bạn của bị cáo và do bị cáo không có Căn cước công dân nên nhờ chị Ý đứng ra thuê căn hộ này dùm cho bị cáo để ở chứ chị Ý không biết hay liên quan gì đến số ma túy của bị cáo bị thu giữ nên nay bị cáo thừa nhận chỉ có một mình bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố và không có ý kiến gì về khối lượng ma túy đã giám định cùng với việc giải quyết vật chứng.

Tại Cáo trạng số: 223/CT-VKS, ngày 21 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận B, Thành phố H đã truy tố bị cáo Phan Vũ T ra trước Tòa án nhân dân quận B, Thành phố H để xét xử về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận có ý kiến: Bị cáo Phan Vũ T đã thực hiện hành vi cất giữ số ma túy đều ở thể rắn, có khối lượng 3,7011g, loại Ketamine và 4,4074g, loại MDMA nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 06 năm đến 07 năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về vật chứng, đề nghị tịch sung quỹ Nhà nước 01 cái điện thoại di động Iphone và tiêu hủy 01 gói ma túy sau giám định.

Bị cáo không tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra-Công an quận B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo Phan Vũ T tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào lúc 19 giờ 30 phút ngày 02/4/2023, tại Căn hộ C-Chung cư C, số F, đường K, phường A, quận B. Bị cáo đã có hành vi cất giữ 03 gói nylon chứa tinh thể không màu và 01 gói nylon chứa 09 viên nén màu nâu nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Theo Kết luận giám định số: 3246/KL-KTHS, ngày 11/4/2023 của Phòng K- Công an Thành phố H thì: “01 gói được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Phan Vũ T, Cao Hồng Huỳnh Kim H (người chứng kiến), Nguyên Ngọc T2 (Điều tra viên) và hình dấu Công an phường A, quận B”, bên trong có: “Tinh thể không màu trong 03 gói nylon”, “đều là ma túy ở th rắn, có tng khối lượng 3,7011g, loại Ketamine”; “09 viên nén màu nâu trong 01 gói nylon”, “đều là ma túy ở thể rắn, cỏ tổng khối lượng 4,4074g, loại MDMA” (tổng 02 chất ma túy ở đều ở thể rắn, có tổng khối lượng 8,1085g, loại Ketamine và loại MDMA). Do đó, bị cáo Phan Vũ T đã phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, biên bản niêm phong, mở niêm phong, kết luận giám định khối lượng ma túy...nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và lời đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận. Riêng đối với chị Nguyễn Thị Như Ý, chỉ là bạn của bị cáo và do bị cáo không có Căn cước công dân nên mới nhờ chị Ý đứng ra thuê căn hộ dùm cho bị cáo để ở chứ chị Ý không biết hay liên quan gì đến số ma túy của bị cáo nên chị Ý không bị xử lý là có căn cứ. Còn đối với tên P bán ma túy cho bị cáo, do không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra còn đang tiếp tục truy xét đến khi nào phát hiện được sẽ xử lý sau.

[4] Xét chất ma túy là loại chất kích thích do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và mua bán. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai và vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, mang tính chất liều lĩnh, xem thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương và có thể là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm. Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay: bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không có nghề nghiệp và điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối 01 cái điện thoại di động Iphone, màu xanh-số thuê bao 0975567871 của bị cáo, do có sử dụng liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Riêng 01 gói niêm phong bên trong chứa ma túy sau giám định-Phan Vũ T của bị cáo là chất kích thích, Nhà nước cấm sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[7] Bị cáo Phan Vũ T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về căn cứ điều luật và xử phạt:

- Căn cứ vào điểm n khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Xử phạt bị cáo Phan Vũ T 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 02-4-2023.

2. Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 cái điện thoại di động Iphone, màu xanh-số thuê bao 0975567871.

- Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong bên trong chứa ma túy sau giám định-Phan Vũ T.

(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận B đang tạm giữ theo Phiếu nhập kho số: NK23/220TAM, ngày 25/7/2023)

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Phan Vũ T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Bị cáo Phan Vũ T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 214/2023/HS-ST

Số hiệu:214/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về