Bản án về tội tham ô tài sản số 309/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 309/2022/HS-PT NGÀY 11/08/2022 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

Vào ngày 11 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 266 /2022/TLPT-HS ngày 27 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo Trịnh Đình H về tội “Tham ô tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2022/HS-ST ngày 16/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.

- Bị cáo có kháng cáo Trịnh Đình H, sinh năm 1958; tại tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú: tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp, chức vụ: Thủ kho, nhân viên bán hàng; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Văn N (chết) và Vũ Thị M, sinh năm 1939; vợ Trần Thị Thanh H, sinh năm 1965; có 03 con, lớn nhất sinh năm 1985, nhỏ nhất sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 22/4/2021 đến ngày 16/12/2021 cho bảo lĩnh. Bị cáo tại ngoại, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Trịnh Đình H: Ông Vũ Xuân H luật sư văn phòng Luật sư H, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Phú Yên; Địa chỉ: tỉnh Phú Yên. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Công ty cổ phần thương mại miền núi Phú Yên, địa chỉ tỉnh Phú Yên do ông Võ Tấn D làm Giám đốc, đăng ký kinh doanh lần đầu ngày 30/3/2006, đăng ký thay đổi lần thứ 7 ngày 20/3/2014 với ngành nghề kinh doanh: buôn bán thực phẩm, thuốc lá, đồ uống... Mã số doanh nghiệp 4400314287.vốn điều lệ của Công ty là 6.365.960.000 đồng. Công ty có 06 địa điểm kinh doanh là các Cửa hàng tại các huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh Phú Yên, trong đó có Cửa hàng kinh doanh tổng hợp S, địa chỉ thị xã S, tỉnh Phú Yên.

Trịnh Đình H là nhân viên, làm việc tại Cửa hàng kinh doanh tổng hợp S từ năm 2003. Ngày 31/12/2018, Công ty CP thương mại Miền núi Phú Yên tiếp tục ký hợp đồng lao động với Trịnh Đình H được giao nhiệm vụ là thủ kho, kiêm nhân viên bán hàng tại Cửa hàng kinh doanh tổng hợp S trực thuộc Công ty. Từ tháng 12/2019, Công ty CP thương mại Miền núi Phú Yên đã tạm đình chỉ công tác của H để làm rõ sai phạm trong công tác quản lý tiền hàng. Kết quả điều tra đã xác định hành vi phạm tội của bị can Trịnh Đình H cụ thể như sau:

Từ tháng 01/2019 đến tháng 6/2019, Cửa hàng kinh doanh tổng hợp S không có Trưởng cửa hàng, Phó Cửa hàng. Từ tháng 7/2019 ông Võ Văn H được bổ nhiệm chức vụ Trưởng Cửa hàng, bà Đỗ Thị Thu T làm kế toán kiêm thủ quỹ; Trịnh Đình H làm thủ kho kiêm nhân viên bán hàng (từ tháng 01/2019 đến 11/2019); ông Lê Quang T là nhân viên giao hàng, bán hàng; ông Võ Viết S là thủ kho (từ tháng 12/2019 thay cho H) và ông Nguyễn Minh u lái xe. Sau khi ông H nhận nhiệm vụ, qua theo dõi nhận thấy H có hiện tượng thiếu tiền hàng, nên cuối tháng 10/2019 ông H tổ chức kiểm kê thực tế kho hàng và đối chiếu công nợ với H thì nhận thấy công nợ tiền hàng rất cao so với thực tế và vượt mức quy định của Công ty đưa ra. Theo Phương án khoán lương của Công ty quy định tỷ lệ công nợ bình quân (%)/doanh thu (giá bán) tại Cửa hàng kinh doanh tổng hợp S là 15%, tỷ lệ công nợ của H các tháng 6, 7, 8, 9, 10 năm 2019 đều vượt định mức cho phép).

Trên cơ sở phát hiện của Cửa hàng kinh doanh tổng hợp S, ngày 28/11/2019 ông Võ Tấn D - Giám đốc, bà Lê Thị H - Phó giám đốc, ông Trần Quang T - Trưởng phòng kế toán và bà Nguyễn Thị Mộng Thùy - Trưởng phòng kinh doanh Công ty CP thương mại Miền núi Phú Yên tiến hành làm việc với Cửa hàng S về số dư công nợ và hàng hóa tồn kho thực tế tại Cửa hàng, xác định:

1. Về số dư công nợ đến ngày 31/10/2019:

- Công nợ theo sổ sách kế toán: 843.149.000đ.

- Công nợ theo số dư thực tế: 154.554.000đ.

- Chênh lệch thiếu quỹ số tiền: 688.595.000đ.

2. Về hàng tồn kho: Qua kiểm kê hàng tồn kho khống đã xử lý bắt buộc lên báo cáo bán hàng, H thừa nhận hành vi sử dụng tiền hàng của Công ty là trái quy định và nhận trách nhiệm sẽ khắc phục, hoàn trả tiền đầy đủ cho Công ty. H đề nghị Công ty xem xét cho thời hạn khắc phục là 30 ngày (kể từ ngày 28/11/2019) nhưng Công ty yêu cầu H trong vòng 10 ngày phải nộp khắc phục ngay số tiền trên.

Ngày 16/12/2019 H tiếp tục tổ chức kiểm tra đối chiếu, xác nhận và thu hồi công nợ, đến ngày 30/11/2019 H còn nợ số tiền 691.173.000 đồng, lý do tăng công nợ là do cộng thêm tiền hàng Unilever H còn thiếu chưa nộp quỹ, H cam kết đến ngày 31/12/2019 sẽ hoàn trả số tiền trên cho Công ty.

Ngày 17/12/2019, ông Võ Tấn D - Giám đốc Công ty CP thương mại Miền núi Phú Yên làm việc với Cửa hàng S và H, chỉ đạo: Đối với hàng hóa tồn kho và công nợ thực tế của khách hàng đến ngày 30/11/2019 là 162.761.000 đồng giao lại cho ông Võ Viết S trực tiếp quản lý, theo dõi và chịu trách nhiệm thu hồi. Đối với khoản nợ H là 691.173.000 đồng, cuộc họp trước Giám đốc đã yêu cầu H phải khắc phục chậm nhất là ngày 10/12/2019 nhưng H vẫn không khắc phục, H trình bày là do điều kiện gia đình khó khăn. Giám đốc đồng ý gia hạn cho H phải thanh toán đủ tiền cho Công ty vào ngày 31/12/2019. Nếu không thanh toán đủ Công ty sẽ đưa ra pháp luật giải quyết.

Ngày 08/01/2020, ông Võ Tấn D - Giám đốc Công ty CP thương mại Miền núi Phú Yên tiếp tục làm việc yêu cầu H trả nợ. H cam kết đến ngày 21/01/2020 sẽ nộp 100 triệu đồng, số tiền còn lại sẽ nộp dứt điểm chậm nhất đến ngày 31/03/2020. Giám đốc Công ty đồng ý cho H gia hạn thời gian nộp tiền như đã cam kết. Nếu H không thực hiện đúng cam kết thì Công ty sẽ đưa ra pháp luật giải quyết.

Mặc dù H đã nhiều lần cam kết trả nợ nhưng từ ngày 31/12/2019 đến ngày 31/12/2020 H trả được số tiền 30.205.000 đồng và Công ty thu hồi số tiền H tự ý cho các cá nhân mượn tiền là 29.865.000 đồng, tổng cộng số tiền đã nộp khắc phục 60.070.000 đồng, số tiền H còn nợ đến 31/12/2020 là 691.173.000 đồng - 60.070.000 đồng = 631.103.000 đồng. Từ ngày 31/12/2020, H không thực hiện việc trả nợ cho Công ty như đã cam kết. Vì vậy ngày 04/01/2021 ông Võ Tấn D - Giám đốc Công ty đã có đcm tố cáo H chiếm đoạt tiền hàng của Công ty cổ phần thương mại miền núi Phú Yên.

Qua kết quả điều tra xác định: Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, từ ngày 01/01/2019 đến ngày 30/11/2019 Trịnh Đình H - thủ kho kiêm nhân viên bán hàng tại Cửa hàng S thuộc Công ty CP thương mại Miền núi Phú Yên đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, chiếm đoạt tiền hàng của Công ty để sử dụng cá nhân, cụ thể:

- Công nợ H phải thu của khách hàng cuối năm 2018 chuyển sang đầu năm 2019 là 500.658.666 đồng.

- Hàng hóa H xuất bán trong năm 2019 gồm 141 chứng từ xuất hàng, gồm các mặt hàng thuốc lá, các sản phẩm sữa TH, công nghệ phẩm với tổng giá trị hàng xuất bán là 27.186.737.041 đồng.

- H đã nộp cho Cửa hàng tiền bán hàng trong năm 2019 và trả nợ tiền hàng năm 2018 gồm 248 chứng từ thu tiền, với tổng số tiền đã nộp 26.996.222.830 đồng.

- Số tiền hàng H không nộp vào quỹ của Cửa hàng đến ngày 30/11/2019 là: 691.173.000 đồng.

- Số tiền ông H đã nộp khắc phục sau khi bị kiểm tra phát hiện là 60.070.000 đồng.

- Số tiền H đã bị thiếu quỹ của Công ty đến ngày 31/12/2020 là 631.103.000 đồng.

Số tiền này H đã sử dụng cá nhân 471.655.000 đồng và lấy cho các cá nhân mượn số tiền 41.412.000 đồng; số tiền còn lại 118.036.000 đồng ông Trần Ngọc Cường nhân viên tiếp thị nợ tiền hàng thuốc lá của ông H nhưng do ông Cường và gia đình khó khăn chưa có tiền trả nợ, vợ H đã nộp tiền khắc phục hậu quả nên giảm trừ cho H số tiền 118.036.000 đồng. Như vậy, số tiền H còn chiếm đoạt là: 631.103.000 đồng - 118.036.000 đồng = 513.067.000 đồng. Hành vi nói trên của H đã vi phạm nguyên tắc về quản lý tài chính kế toán, vi phạm nội quy lao động của Công ty.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2022/HS-ST ngày 16/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên quyết định.

Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Đình H phạm tội “Tham ô tài sản”.

1. Về hình phạt: Áp dụng điểm a Khoản 3 Điều 353; Điểm b, s, v, Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự;

Phạt: Bị cáo Trịnh Đình H - 12 (Mười hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được trừ thời gian bị cáo bị tạm giam từ ngày 22/4/2021 đến ngày 16/12/2021.

Bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong hạn luật định bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên kháng cáo.

Đại diện viện kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, sửa một phần bản án sơ thẩm, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của người kháng cáo, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, đồng thời đề nghị xem xét lại tổng số tiền mà bị cáo chiếm đoạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Từ tháng 01/2019 đến tháng 10/2019,Trịnh Đình H là thủ kho, kiêm nhân viên bán hàng Cửa hàng kinh doanh tổng hợp S thuộc Công ty cổ phần thương mại miền núi Phú Yên đã có hành vi lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn được giao, bán hàng thu tiền nhưng không giao nộp cho Công ty cổ phần thương mại miền núi Phú Yên mà chiếm đoạt sử dụng cá nhân dưới nhiều hình thức với tổng số tiền 513.067.000 đồng.

Với hành vi và hậu quả nêu trên, bị cáo Trịnh Đình H bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “tham ô tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 353 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.

[2] Xét đơn kháng cáo của bị cáo; Hội đồng xét xử xét thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm trực tiếp quản lý, xâm phạm đến hoạt động đúng đắn và tài sản của Công ty cổ phần thương mại miền núi Phú Yên.

Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo mức án 12 năm tù theo điểm a Khoản 3 Điều 353 BLHS là thoả đáng và không nặng. Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã chứng minh được bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về số tiền 513.067.000 đồng. Tại phiên toà hôm nay bị cáo cung cấp một số hóa đơn chứng từ của Công ty cổ phần thương mại miền núi Phú Yên và cho rằng số tiền trên phải được khấu trừ cho bị cáo. Xét thấy chứng cứ trên đã được xem xét toàn diện, tổng thể tại cơ quan điều tra do vậy; Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu nêu trên của bị cáo không được chấp nhận.

Tại phiên toà phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới cho bị cáo được hưởng do vậy đơn kháng cáo của bị cáo không có căn cứ được chấp nhận.

[3] Về án phí: Bị cáo Trịnh Đình H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Trịnh Đình H. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2022/HS-ST ngày 16/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên.

Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Đình H phạm tội “Tham ô tài sản”.

1. Về hình phạt: Áp dụng điểm a Khoản 3 Điều 353; Điểm b, s, v, Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự;

Phạt: Bị cáo Trịnh Đình H - 12 (Mười hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được trừ thời gian bị cáo bị tạm giam từ ngày 22/4/2021 đến ngày 16/12/2021.

2. Về án phí:

Bị cáo Trịnh Đình H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tham ô tài sản số 309/2022/HS-PT

Số hiệu:309/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:11/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về