TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
BẢN ÁN 103/2022/HS-PT NGÀY 06/05/2022 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 291/2021/TLPT- HS ngày 15 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo Huỳnh Đức S, do có kháng cáo của bị cáo Huỳnh Đức S đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 43/2021/HS-ST ngày 03 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
- Bị cáo có kháng cáo: Huỳnh Đức S, sinh ngày 09/12/1991, tại Điện Bàn, Quảng Nam; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: thôn N, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: Nhân viên; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Đức A, sinh năm 1963 và bà Đinh Thị N, sinh năm 1969; bị cáo có vợ Hà Thị Phương T, sinh năm 1993 và 01 con, sinh năm 2016;
Tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cứ trú”, có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra, trong vụ án còn có bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Huỳnh Đức S được Công ty cổ phần dịch vụ thương mại tổng hợp Vincommerce (Sau đây gọi tắt là Công ty Vincommerce) ký kết hợp đồng lao động với chức danh Cửa hàng trưởng, làm việc tại các cửa Hàng Vinmart (Trực thuộc Công ty Vincommerce) tại Quảng Nam. Cửa hàng trưởng chịu trách nhiệm điều hành, giám sát mọi hoạt động của cửa hàng Vinmart; chịu trách nhiệm trước công ty về các vấn đề liên quan đến tài sản, nhân sự và hiệu quả hoạt động kinh doanh của cửa hàng mà mình quản lý. Công việc của Cửa hàng trưởng là quản lý hoạt động kinh doanh, vận hành cửa hàng; quản lý tài sản, hình ảnh, chất lượng dịch vụ của cửa hàng; quản lý nhân sự. Hằng ngày, sau mỗi ca làm việc nhân viên bán hàng sẽ đối chiếu tiền doanh thu trên hệ thống với tiền doanh thu thực tế bán được rồi mang tiền cất vào két sắt của cửa hàng. Đến 19 giờ 00 phút hàng ngày hệ thống tự động chốt tiền doanh thu mỗi ngày của cửa hàng. Sau đó, Cửa hàng trưởng truy cập vào website nội bộ của công ty là mcvinmart.vincommerce.com để thực hiện việc điều chỉnh doanh thu tăng hoặc giảm cho phù hợp với doanh thu thực tế của cửa hàng. Số tiền sau khi Cửa hàng trưởng điều chỉnh sẽ xuất hiện trên ứng dụng Blueone của nhân viên thu tiền. Khi nhân viên thu tiền đến sẽ căn cứ số tiền trên ứng dụng Blueone để thu tiền của cửa hàng và xác nhận trực tiếp trên ứng dụng Blueone, đồng thời cửa hàng in biên bản giao nhận tiền có chữ ký xác nhận của Cửa hàng trưởng và nhân viên thu tiền.
Từ tháng 11 năm 2019, S là Cửa hàng trưởng cửa hàng Vinmart tại số 118 Lý Thường Kiệt, phường Sơn Phong, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Lợi dụng việc công ty cho phép điều chỉnh doanh thu của cửa hàng sau khi hệ thống tự động chốt tiền, S thực hiện việc điều chỉnh tổng doanh thu của cửa hàng cho phù hợp với thực tế theo đúng quy định của công ty là làm tròn số đến đơn vị hàng nghìn đồng. Sau đó, S tiếp tục điều chỉnh giảm bớt 2.000.000 đồng so với tổng số tiền doanh thu thực tế trong ngày để chiếm đoạt số tiền này. Từ ngày 16/9/2020 đến ngày 21/9/2020, mỗi ngày S chiếm đoạt của Công ty Vincommerce số tiền 2.000.000 đồng, tổng số tiền bị cáo chiếm đoạt trong 06 ngày là 12.000.000 đồng, cụ thể như sau:
- Ngày 16/9/2020, tổng doanh thu thực tế của cửa hàng là 8.507.985 đồng, S điều chỉnh làm tròn thành 8.508.000 đồng, rồi tiếp tục điều chỉnh giảm xuống còn 6.508.000 đồng. Khi nhân viên thu tiền đến, S giao số tiền là 6.508.000 đồng cho nhân viên thu tiền, S chiếm đoạt số tiền 2.000.000 đồng.
- Ngày 17/9/2020, tổng doanh thu thực tế của cửa hàng là 7.335.169 đồng, S điều chỉnh làm tròn thành 7.336.000 đồng, rồi tiếp tục điều chỉnh giảm xuống còn 5.336.000 đồng để chiếm đoạt 2.000.000 đồng.
- Ngày 18/9/2020, tổng doanh thu thực tế của cửa hàng là 13.038.608 đồng, S điều chỉnh làm tròn thành 13.039.000 đồng theo quy định của công ty, rồi tiếp tục điều chỉnh giảm xuống còn 11.039.000 đồng để chiếm đoạt 2.000.000 đồng.
- Ngày 19/9/2020, tổng doanh thu thực tế của cửa hàng là 10.552.639 đồng, S điều chỉnh làm tròn thành 10.553.000 đồng theo quy định của công ty, rồi tiếp tục điều chỉnh giảm xuống còn 8.553.000 đồng để chiếm đoạt 2.000.000 đồng.
- Ngày 20/9/2020, tổng doanh thu thực tế của cửa hàng là 8.398.695 đồng, S điều chỉnh làm tròn thành 8.399.000 đồng theo quy định của công ty, rồi tiếp tục điều chỉnh giảm xuống còn 6.399.000 đồng để chiếm đoạt 2.000.000 đồng.
- Ngày 21/9/2020, tổng doanh thu thực tế của cửa hàng là 11.065.283 đồng, S điều chỉnh làm tròn thành 11.066.000 đồng theo quy định của công ty, rồi tiếp tục điều chỉnh giảm xuống còn 9.066.000 đồng để chiếm đoạt 2.000.000 đồng.
Ngoài ra, trong quá trình điều tra, đại diện hợp pháp của Công ty Vincommerce đã tố cáo S thiếu tinh thần trách nhiệm, gây thất thoát hàng hóa tại cửa hàng Vinmart 118 Lý Thường Kiệt – thành phố Hội An từ tháng 5/2020 đến ngày 23/9/2020, với tổng số tiền là 72.800.181 đồng; thất thoát doanh thu của cửa hàng từ ngày 22/9/2020 đến ngày 24/9/2020 với số tiền 3.607.474 đồng; thất thoát tiền Petty Cash (Tiền Công ty cấp cho cửa hàng để thanh toán các chi phí phát sinh tại cửa hàng) với số tiền 3.000.000 đồng.
Với nội dung trên, Bản án hình sự sơ thẩm số 43/2021/HS-ST ngày 03/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Huỳnh Đức S phạm tội:“Tham ô tài sản”.
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 353, điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Huỳnh Đức S 05 (năm) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.
Ngày 15/11/2021, bị cáo Huỳnh Đức S kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo S giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm đã được tóm tắt nêu trên.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để làm căn cứ xử phạt bị cáo Huỳnh Đức S 05 (năm) năm tù về tội “Tham ô tài sản” là phù hợp, nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo S, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.
Bị cáo không tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và xin được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Huỳnh Đức S có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo. Xét đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định theo đúng quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự nên kháng cáo của bị cáo là hợp pháp.
[2] Xét lời khai nhận của bị cáo Huỳnh Đức S tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Bị cáo Huỳnh Đức S là Cửa hàng trưởng - Cửa hàng Vinmart, tại địa chỉ 118 Lý Thường Kiệt, phường Sơn Phong, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, trực thuộc Công ty cổ phần dịch vụ thương mại tổng hợp Vincommerce đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong việc quản lý điều hành, giám sát mọi hoạt động và điều chỉnh doanh thu theo quy định của cửa hàng Vinmart trong khoảng thời gian từ ngày 16/9/2020 đến ngày 21/9/2020 bị cáo S đã điều chỉnh giảm bớt doanh thu của công ty, chiếm đoạt tổng số tiền 12.000.000 đồng. Với hành vi và số tiền chiếm đoạt nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án bị cáo Huỳnh Đức S về tội “Tham ô tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 353 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo Huỳnh Đức S, thì thấy:
Bị cáo Huỳnh Đức S có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường thiệt hại, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, bị cáo có cha là người có công cách mạng, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã được Tòa án cấp sơ thẩm xác định. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo cung cấp giấy xác nhận bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính phải nuôi con nhỏ, vợ bị cáo bị bệnh, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới phát sinh tại cấp phúc thẩm được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đồng thời xét thấy số tiền bị cáo chiếm đoạt không lớn và đã khắc phục xong, nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bi cáo Huỳnh Đức S, sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo, thì thấy: Bị cáo lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, căn cứ khoản 1 Điều 3 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì bị cáo thuộc trường hợp không được hưởng án treo, nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo.
[4] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh Đức S, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 43/2021/HS-ST ngày 03/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam về phần hình phạt.
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 353; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):
Xử phạt bị cáo Huỳnh Đức S 30 (Ba mươi) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.
2. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Huỳnh Đức S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 06-5- 2022)
Bản án về tội tham ô tài sản số 103/2022/HS-PT
Số hiệu: | 103/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về