Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 94/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 94/2022/HS-ST NGÀY 09/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 09 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 85/2022/TLST- HS ngày 13 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

04/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:

Phm Viết T, sinh năm 1999 tại Bình Thuận;

Nơi cư trú: Thôn Phước Tiến, xã Tân Phước, thị xã L, tỉnh Bình Thuận;

Nghề nghiệp: Thợ hồ; Trình độ học vấn: 9/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Cha: Phạm Viết A, sinh năm 1960 Mẹ: Phạm Thị L, sinh năm 1962;

Gia đình có 03 anh, em, bị cáo là con thứ ba Vợ, con: Không;

Tiền án: Ngày 15.7.2020, Phạm Viết T bị Tòa án nhân dân thị xã L xử phạt 01 năm 08 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án số: 49/2020/HSST. Ngày 15.01.2022, bị cáo chấp hành xong án phạt tù vào ngày 15.01.2022 nên chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt và tạm giữ từ ngày 30/6/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thị xã L (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 15 phút, ngày 30/6/2022, Tổ công tác thuộc Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh B. T phối hợp với Công an thị xã L bắt quả tang bị cáo Phạm Viết T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại vị trí trước nhà số 305 đường Q thuộc khu phố 2, phường Tân An, thị xã L. Thu giữ trên nền sân trước nhà gần nơi T đang đứng có 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet, bên trong có 01 gói nilon không màu, có nhíp kéo một đầu màu đỏ, kích thước (04 x 07) cm, hàn kín ở giữa, bên trong gói nilon chứa chất tinh thể màu trắng; 02 viên nén màu hồng hình quả dâu và 01 viên nén hình tròn, một mặt có gạch ngang, một mặt có chữ “VL” lồng vào nhau. Ngoài ra, Công an còn thu giữ của bị cáo T: 01 điện thoại Oppo màu đen, 01 xe mô tô BKS 86B6 – xxxxx và 4.000.000 đồng tiền mặt. Sau đó, Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong tang vật để xử lý theo quy định.

Tại Kết luận giám định số: 715/KL-KTHS ngày 07/7/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. T kết luận:

Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 1,0282 gam là MDMA;

Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 2,2808 gam là Ketamine;

Về nguồn gốc số ma túy trên thì bị cáo T trình bày: Vào ngày 29/6/2022, bị cáo T đến khu vực gần cây xăng T. P thuộc phường Bình Tân, thị xã L mua của một người tên V (không rõ nhân thân, lai lịch) 03 viên thuốc lắc và 01 bịch ma túy hàng khay với giá 3.900.000 đồng để sử dụng cho bản thân. Số ma túy trên bị cáo T bỏ trong bịch nilon hàn kín rồi cất giấu trong 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet. Đến khoảng 18 giờ 10 phút ngày 30.6.2022, bị cáo T lấy vỏ gói thuốc lá hiệu Jet bên trong chứa ma túy bỏ vào gác ba ga xe mô tô BKS 86B6 – xxxxx rồi điều khiển đến khu vực gần quán Karaoke 307 thuộc khu phố 2, phường T. A để tìm nơi sử dụng ma túy. Khi đến khu vực này, bị cáo T thấy lực lượng Công an đi tuần tra nên dừng xe lại, dùng tay phải cầm gói thuốc lá hiệu Jet bên trong chứa ma túy vứt xuống đất, gần chỗ T đứng khoảng 01 mét thì bị Công an phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ số ma túy nêu trên.

Về vật chứng vụ án: Đối với gói nilon đã cắt lấy mẫu và 1,3111 gam mẫu M2 còn lại sau giám định (trong quá trình giám định mẫu M1 đã được sử dụng hết) được niêm phong trong phong bì số 715 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B. T; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet; các vật chứng trên đã được chuyển sang Chi cục thi hành án dân sự thị xã L quản lý. Đối với 01 xe mô tô BKS 86B6 – xxxxx; 01 điện thoại di động hiệu Oppo và 4.000.000 đồng đã trả cho bị cáo Phạm Viết T vào ngày 16.7.2022.

Sau khi phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân bị cáo; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã L giữ quyền công tố kết luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản Cáo trạng số: 95/CT-VKSLG-HS ngày 12/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố bị cáo Phạm Viết T, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đề nghi ̣Hôi đồng xet xư: Tuyên bố bi c̣ ao Phạm Viết T pham tôi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Ap dung: Điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Phat bi c̣ ao Phạm Viết T mưc an tư: 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, còn nguyên vẹn số 715, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B. T là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet (vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã L theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/10/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L và Chi cục thi hành án dân sự thị xã L).

- Ý kiến của bị cáo Phạm Viết T: Đồng ý với nội dung luận tội của Kiểm sát viên nên không có ý kiến tranh luận.

* Bị cáo Phạm Viết T nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai trái, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Xét thấy lời trình bày của bị cáo Phạm Viết T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, đối chiếu với những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở và căn cứ pháp lý để Hội đồng xét xử kết luận: Vào khoảng 18 giờ 15 phút, ngày 30/6/2022, bị cáo Phạm Viết T có hành vi tàng trữ trái phép 1,0282 gam MDMA và 2,2808 gam Ketamine tại khu phố 2, phường Tân An, thị xã L nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Tổ công tác thuộc Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh B. T phối hợp với Công an thị xã L bắt quả tang, thu giữ tang vật để xử lý theo thẩm quyền.

Bị cáo Phạm Viết T có hành vi tàng trữ 02 chất ma túy khác nhau không cùng một điểm thuộc các khoản của Điều 249 Bộ luật hình sự nên theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định 19/2018/NĐ-CP ngày 02.02.2018 của Chính phủ thì tỷ lệ phần trăm khối lượng các chất ma túy là: (1,0282 gam MDMA/05 gam)x 100 + (2.2808 gam Ketamine/20gam) x 100 = 31,9%. Do đó tỷ lệ phần trăm khối lượng các chất ma túy dưới 100% nên hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Viết T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố đối với bị cáo Phạm Viết T về tội danh, điều luật là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Tệ nạn ma tuý là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Do đó, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phạm Viết T có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị Tòa án nhân dân thị xã L xử phạt 01 năm 08 tháng tù tại Bản án số: 49/2020/HSST, bị cáo T chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 15.01.2022. Do chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo T theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội. Vì vậy, bị cáo T được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bản thân bị cáo nhận thức được ma túy là chất gây nghiện, hủy hoại sức khỏe, Nhà nước nghiêm cấm hành vi tàng trữ trái phép nhưng bị cáo bất chấp pháp luật, đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm sử dụng cho bản thân. Vì vậy, cần xử lý nghiêm khắc nhằm cách ly bị cáo ra khỏi tệ nạn ma túy và đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo lánh xa ma túy và lao động, học tập, giáo dục trở thành con người có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Là 01 phong bì niêm phong, còn nguyên vẹn số 715, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, vì vậy cần tịch thu tiêu hủy; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet là vật không có giá trị, vì vậy cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo Phạm Viết T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Viết T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Viết T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 30/6/2022.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong, còn nguyên vẹn số 715, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung H và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh B. T; 01 vỏ gói thuốc lá hiệu Jet (vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã L theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/10/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L và Chi cục thi hành án dân sự thị xã L).

Về án phí: Bị cáo Phạm Viết T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Viết T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (09/11/2022).

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 94/2022/HS-ST

Số hiệu:94/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về