Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 94/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 94/2022/HSST NGÀY 06/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 06 tháng 07 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai C, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 91/2022/TL-ST-HS, ngày 26 tháng 05 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2022/QĐXXST-HS, ngày 24 tháng 06 năm 2022 đối với bị cáo.

- Ly Hà L: Giới tính: Nữ; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 22 tháng 3 năm 1981; tại: Huyện Mường T, tỉnh Lai C; Nơi ĐKHKTT: Bản Phìn K, xã Bum T, huyện Mường T, tỉnh Lai C; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Trồng trọt;

Trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: La Hủ; Tôn giáo: Không; Đảng, đoàn: Không; Con ông Ly Và X (đã chết) và con bà Pờ Ha B, sinh năm 1947; Chồng: Vàng Gió H, sinh năm 1979; Con: có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2003, con nhỏ nhất sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân chưa bị xử lý; Bị bắt tạm giữ từ ngày 31/12/2021 đến ngày 09/01/2022 bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã Bum T, huyện Mường T, tỉnh Lai C. Đến ngày 19/02/2022 bị cáo tiếp tục phạm tội mới và bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/02/2022 tại nhà tạm giữ Công an huyện Mường T, tỉnh Lai C cho đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Ly Hà L: Ông Lê Mạnh H, Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai C - Có mặt.

- Người phiên dịch cho bị cáo Ly Hà L: Anh Vàng Ma X, sinh năm 1979 - Trú tại: Khu phố 07, thị trấn Mường T, huyện Mường T, tỉnh Lai C - Có mặt.

- Người làm chứng: Anh Lỳ Và H, sinh năm 2005 - Trú tại: Bản Phìn K, xã Bum T, huyện Mường T, tỉnh Lai C, vắng mặt.

- Người đại diện của người làm chứng Lỳ Và H: Ông Lỳ Gió N, sinh năm 1975 - Trú tại: Bản Phìn K, xã Bum T, huyện Mường T, tỉnh Lai C, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 08 giờ ngày 31/12/2021, Ly Hà L rủ Lỷ Và H điều khiển xe máy của gia đình L đi lấy bông chít ở khu vực đầu cầu Nậm K, xã Nậm K, huyện Mường T. Trong lúc đi lấy bông chít L gặp một người phụ nữ dân tộc La Hủ lạ mặt, qua trao đổi, L đã mua được của người phụ nữ này 01 (một) gói thuốc phiện bên ngoài được gói bằng mảnh nilon màu xanh với giá 1.000.000 đồng để sử dụng, sau đó L quay lại chỗ dựng xe máy rồi rủ H đi về, khi về đến nhà L chia gói thuốc phiện ra thành 04 (bốn) gói (trong đó: 03 gói bên ngoài được gói bằng mảnh nilon màu trắng và 01 gói bên ngoài được gói bằng mảnh nilon màu xanh), sau đó L đi ngủ và đặt 04 (bốn) gói thuốc phiện bên cạnh. Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày, tổ công tác Công an xã Bum T phát hiện bắt quả tang, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong toàn bộ số vật chứng theo quy định của pháp luật.

Trong thời gian tại ngoại, khoảng 18 giờ ngày 18/02/2022, trên đường đi làm nương về đến khu vực cầu bê tông thuộc bản Phìn K, xã Bum T, Ly Hà L gặp một người đàn ông dân tộc La Hủ lạ mặt, qua trao đổi L mua được của người đàn ông này 01 (một) gói Heroine được gói ngoài bằng mảnh nilon màu trắng với giá 200.000 đồng mục đích là để sử dụng, sau đó L tiếp tục đi về nhà rồi lấy một ít Heroine ra sử dụng, số Heroine còn lại, L chia thành 11(mười một) gói nhỏ (trong đó: 06 gói được gói bên ngoài bằng mảnh nilon màu xanh; 05 gói bên ngoài được gói bằng mảnh nilon màu đỏ) và cất giấu dưới gối trên giường ngủ. Đến 10 giờ 30 phút ngày 19/02/2022 khi L lấy Heroine ra để sử dụng, thì bị tổ công tác Công an xã Bum T, huyện Mường T phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng có liên quan.

Tại kết luận giám định tư pháp số 16/KLGĐ, ngày 31/12/2021 và kết luận giám định tư pháp số 30/KLGĐ, ngày 19/02/2022 của người giám định tư pháp thuộc Công an huyện Mường T, tỉnh Lai C kết luận: 04 (bốn) gói chất nhựa dẻo, màu nâu đen thu giữ của Ly Hà L có tổng khối lượng là 19,26 gam; 11 (mười một) gói chất bột khô màu trắng thu giữ của Ly Hà L có tổng khối lượng là 1,46 gam Tại kết luận giám định số: 81/GĐ-KTHS ngày 05/01/2022 và bản kết luận giám định số: 218/GĐ-KTHS ngày 24/02/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai C kết luận: 04(bốn) mẫu chất dẻo, màu nâu đen, có mùi hắc thu giữ của Ly Hà L gửi đến giám định là ma túy, loại thuốc phiện; 11(mười một) mẫu chất bột khô, màu trắng thu giữ của Ly Hà L gửi đến giám định là ma túy, loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số: 51/CT-VKS-MT ngày 25 tháng 05 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T truy tố Ly Hà L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", tại phiên tòa hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xử lý:

- Về trách nhiệm hình sự: Đối với Ly Hà L về tội danh "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

- Về hình phạt chính: Áp dụng Điều 38; Điều 50; điểm b khoản 2 Điều 249;

điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Ly Hà L từ: 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, do điều kiện kinh tế của bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 07 (bảy) mảnh nilon màu xanh; 05 (năm) mảnh nilon màu đỏ; 03 (ba) mảnh nilon màu trắng là vật chứng còn lại thu giữ của Ly Hà L.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Do gia đình và bản thân bị cáo là hộ nghèo của xã Nậm K. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí tòa án, cho bị cáo.

Tại phiên tòa hôm nay, người bào chữa cho bị cáo sau khi phân tích tính chất, mức độ phạm tôi, hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo. Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử miễn hình phạt tiền, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo; Cho bị cáo được hưởng mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có ý kiến gì bổ sung, đồng ý với lời bào chữa của người bào chữa.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa việc bị cáo khai báo là hoàn toàn tự nguyện, không bị mớm cung, ép cung, bị cáo không khiếu nại gì về quyết định, hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Sau khi tranh luận Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên mức hình phạt chính như đã đề nghị. Lời nói sau cùng bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập có trong hồ sơ vụ án như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Trong thời gian từ ngày 31/12/2021 đến ngày 19/02/2022, tại nhà ở của mình thuộc bản Phìn K, xã Bum T, huyện Mường T, tỉnh Lai C, Ly Hà L đã hai lần thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, cụ thể.

- Lần thứ nhất: Hồi 14 giờ 30 phút, ngày 31/12/2021, Ly Hà L đang tàng trữ trái phép 19,26 gam thuốc phiện thì bị tổ công tác Công an xã Bum T, huyện Mường T phát hiện bắt quả tang.

- Lần thứ hai: Hồi 10 giờ 30 phút, ngày 19/02/2022, Ly Hà L đang tàng trữ trái phép 1,46 gam Heroine thì bị tổ công tác Công an xã Bum T, huyện Mường T phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T đã truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội, bị cáo không khiếu nại gì đối với các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đều hợp pháp, đúng pháp luật.

[2]. Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương, bị cáo hiểu được điều đó nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nhằm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội và gia đình. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy: Bị cáo Ly Hà L luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần được xem xét áp dụng cho bị cáo. Bị cáo là người phụ nữ dân tộc thiểu số La Hủ, nhận thức pháp luật hạn chế, gia đình thuộc hộ nghèo, sinh sống ở xã Bum T là xã có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4]. Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5]. Về nhân thân bị cáo Ly Hà L có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, từ nhỏ không được đi học, lớn lên tham gia lao động sản xuất tại địa phương, chưa có tiền án, tiền sự, nhận thức pháp luật hạn chế. Bị cáo nhận thức rõ được hành vi tàng trữ chất ma túy của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích thỏa mãn nhu cầu sử dụng chất ma túy của bản thân nên đã cố ý phạm tội.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, ngưi phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 triệu đồng, xét thấy: Bị cáo là người phụ nữ dân tộc thiểu số La Hủ, nghề nghiệp trồng trọt, thu nhập thấp, nhận thức pháp luật hạn chế, là người thường xuyên sử dụng chất ma túy, gia đình khó khăn là hộ nghèo của xã Bum T. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7]. Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 07 (bảy) mảnh nilon màu xanh; 05 (năm) mảnh nilon màu đỏ; 03(ba) mảnh nilon màu trắng là vật chứng còn lại thu giữ của Ly Hà L.

[8]. Về án phí: Xét thấy, bị cáo là người phụ nữ dân tộc thiểu số La Hủ, nghề nghiệp trồng trọt, nhận thức pháp luật hạn chế, gia đình khó khăn là hộ nghèo của xã Bum T là xã có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn. Do vậy cần miễn án phí hình sự sơ thẩm theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí tòa án, cho bị cáo.

[9]. Từ những phân tích như trên, Hội đồng xét xử có cơ sở khách quan và căn cứ pháp lý để kết luận: Bị cáo Ly Hà L đã phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự; do vậy ý kiến của Kiểm sát viên và người bào chữa tại phiên tòa về tội danh, điều luật áp dụng, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51và Điều 52 của Bộ luật hình sự; Xử lý vật chứng; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự; Miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội, đối với bị cáo là có cơ sở đúng quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10]. Đối với người phụ nữ và người đàn ông lạ mặt đã bán thuốc phiện và Heroine cho bị cáo Ly Hà L. Trong qúa trình điều tra không xác định được lai lịch của những người này nên không đủ căn cứ để xử lý. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[11]. Đối với Lỳ Và H là người điều khiển xe máy chở Ly Hà L, do H không biết việc L tàng trữ trái phép chất ma túy nên H không đồng phạm với L. Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường T không truy tố H. Do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo: Ly Hà L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Căn cứ vào Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Ly Hà L: 05 năm tù. Được khấu trừ 09 (chín) ngày tạm giữ kể từ ngày 31/12/2021 đến ngày 09/01/2022. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 19/02/2022.

- Về hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: Không áp dụng đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy:

07(bảy) mảnh nilon màu xanh; 05 (năm) mảnh nilon màu đỏ; 03(ba) mảnh nilon màu trắng là vật chứng còn lại thu giữ của Ly Hà L.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Ly Hà L.

- Về quyền kháng cáo: Theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

93
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 94/2022/HSST

Số hiệu:94/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về