Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ KON TUM, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 89/2022/HS-ST NGÀY 20/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 70/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 80/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Lê Thanh Q (Tên gọi khác: Bu), giới tính: Nam, sinh năm 1980 tại Quãng Ngãi; Quốc tịch: Việt Nam;Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Nơi cư trú: Thôn Nhơn Ngh, xã Sa Nh, huyện Sa Th, tỉnh Kon T. Con ông: Lê Thanh H, sinh năm 1949; Con bà: Nguyễn Thị Bích T (đã chết); Vợ: Nguyễn Thị Kiều Kh, sinh năm: 1981; Con: Lê Thị Ngọc M, sinh năm: 1999; Con: Lê Thanh Th, sinh năm: 2005; Con: Lê Thị Ngọc T, sinh năm: 2008; Con: Lê Thị Ngọc Q, sinh năm: 2015. Hiện đang sinh sống tại Thôn Nhơn Ngh, xã Sa Nh, huyện Sa Th, tỉnh Kon T; Tiền án, tiền sự: Không.

Về nhân thân: Ngày 13/12/2013, bị TAND tỉnh Kon T tuyên phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” (đã xóa án tích).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/5/2022 cho đến nay. Có mặt

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Nguyễn Thị Kiều Kh, sinh năm 1981. Địa chỉ: Thôn Nhơn Ngh, xã Sa Nh, huyện Sa Th, tỉnh Kon T. Có mặt.

+ Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V (VP Bank) – Chi nhánh Gia L. Địa chỉ: Số 30 Trần Ph, phường Tây S, thành phố P, tỉnh Gia L. Vắng mặt.

Người chứng kiến:

1. Bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1976. Địa chỉ: Thôn 1, thị trấn Sa Th, huyện Sa Th, tỉnh Kon T. Vắng mặt.

2. Lê Thị Đ, sinh năm 1974. Địa chỉ: Thôn Nhơn Kh, xã Sa Nh, huyện Sa Th, tỉnh Kon T. Vắng mặt.

3. Lê Thị T, sinh năm 1973. Địa chỉ: Thôn 1, thị trấn Sa Th, huyện Sa Th, tỉnh Kon T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 01/5/2022, Lê Thanh Q gọi cho một người thanh niên tên Nh bằng số điện thoại 0333.302.359 (số của Q) hỏi mua 2.000.000đ (Hai triệu đồng) ma túy đá. Nh đồng ý, nhắn số tài khoản ngân hàng cho Lê Thanh Q đến máy ATM Ngân hàng Agribank ở thị trấn Sa Th, huyện Sa Th, tỉnh Kon T chuyển tiền mua ma túy cho Nh nhưng không thực hiện được. Lê Thanh Q gọi điện thoại thông báo cho Nh biết thì Nh nói sẽ đi taxi đến huyện Sa Th giao ma túy cho Lê Thanh Q rồi lấy tiền nhưng Nh không đến. Khoảng 09 giờ 50 phút ngày 02/5/2022, Lê Thanh Q nhận chở khách là bà Lê Thị D, bà Nguyễn Thị Thanh T bằng xe ô tô biển số 82A-060.92 do Lê Thanh Q đứng tên, chủ sở hữu điều khiển chở đi đám cưới tại huyện Đăk H, tỉnh Kon T. Sau đó, Lê Thanh Q đang điều khiển xe ô tô biển số 82A-060.92 chở những người trên từ huyện Đăk H về lại huyện Sa Th, tỉnh Kon T thì Nh gọi điện thoại cho Lê Thanh Q để giao ma túy. Lê Thanh Q nói cho Nh biết biển số xe ô tô của mình đang đi, khi đến ngã tư Trung Tín, Nhỏ tiếp tục gọi điện thoại cho Lê Thanh Q nói đang điều kiển xe mô tô đi sau xe ô tô. Lê Thanh Q dừng xe ô tô đi xuống để lấy ma túy, Nh nói ma túy để trong gói thuốc lá ở dưới đất phía sau xe ô tô. Lúc này, Lê Thanh Q đưa cho Nh số tiền 2.000.000đ (Hai triệu đồng), Nh cầm tiền rồi bỏ đi. Lê Thanh Quang đi đến sau xe cầm lấy 01 (Một) gói thuốc lá, bên trong có chứa ma túy, cất giấu ở túi quần phải rồi tiếp tục điều khiển xe ô tô chở khách đi về. Khi đến thôn Măng L, xã Ngọc B, thành phố K thì bị Công an thành phố Kon T yêu cầu dừng xe để kiểm tra, Lê Thanh Q thấy vậy liền lấy gói thuốc lá có chứa ma túy đang cất dấu ở túi quần phải, ném xuống miếng lót chân bên tài xế. Qua kiểm tra Công an phát hiện thu giữ 01 (Một) gói chất tinh thể rắn màu trắng đựng trong bì ni lông buộc kín ở trên miếng lót chân ghế trước bên tài (Ghế tài xế). Tại đây, Lê Thanh Q khai nhận gói chất tinh thể rắn màu trắng trên là ma túy của Lê Thanh Q mua của một người thanh niên tên Nh với giá 2.000.000đ (Hai triệu đồng) cất giấu để sử dụng. Cơ quan Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong và niêm phong tang vật theo quy định.

Tại bản Kết luận giám định số 96/KL-KTHS ngày 05/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kon T, kết luận: Mẫu chất tinh thể rắn màu trắng đục (Ký hiệu M) được niêm phong trong phong bì dán kín gửi giám định là ma túy, có khối lượng 2,456 gam, là loại: Methamphetamine.

* Vật chứng vụ án:

- 2,431 (Hai phẩy bốm trăm ba mươi mốt) gam Methamphetamine, 01 (một) vỏ bao thuốc lá màu trắng được bao gối mẫu vật trong 01 (một) phong bì mặt trước có in nội dung:“CÔNG AN TỈNH K PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ SỐ: 96/KL-KTHS”, mặt sau có các hình dấu tròn có nội dung “PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ*CÔNG AN TỈNH K” và các chữ ký ghi tên của những người tham gia niêm phong tại mép dán (số ma túy còn lại sau giám định).

- 01 (Một) điện thoại di động dạng cảm ứng, mặt sau máy có ghi chữ Vivo, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng máy; được niêm phong trong bì thư dán kín, mặt trước có chữ “CÔNG AN TỈNH KON TUM PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” mặt sau tại các mép dán có chữ kí ghi họ tên của giám định viên, điều tra viên và ba hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh K.

- 01 (Một) xe ô tô có gắn biển số 82A- 060.92, màu trắng, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng xe. Tại bản Kết luận định giá số 35/KL-HĐ của Hội đồng định giá tài sản ngày 14 tháng 7 năm 2022, kết luận: Giá trị tài sản của xe ô tô biển số 82A-060.92 là 358.848.000 đồng.

Cáo trạng số 75/CT-VKSTPKT ngày 16 tháng 8 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum truy tố bị cáo Lê Thanh Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

*Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố K, tỉnh K vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Thanh Q từ 24 đến 30 tháng tù giam.

Về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ý kiến và lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo không tự bào chữa cho hành vi của mình và không có ý kiến tranh luận với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa đều đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử toàn bộ vụ án, căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Thanh Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai trước đây tại cơ quan điều tra, lời khai của người những người chứng kiến và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 13 giờ 20 phút ngày 02/5/2022, bị cáo Lê Thanh Q bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tại Thôn Măng L, xã Ngọc B, thành phố K, tỉnh Kon T, có khối lượng 2,456 gam, là loại Methamphetamine (sau giám định là 2.431 gam). Khi bị bắt, bị cáo đang cất giấu số ma túy này trên miếng lót chân của xe ô tô 82A – 060.92 (vị trí bị cáo đang ngồi lái xe), mục đích để sử dụng cho cá nhân. Hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo Lê Thanh Q đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Kon T, tỉnh Kon T truy tố bị cáo Lê Thanh Q là có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người và cộng đồng xã hội nhưng vẫn cố ý tàng trữ để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội, hủy hoại sức khỏe con người, tiếp tay cho các đối tượng mua, bán trái phép chất ma túy và là nguyên nhân gây phát sinh nhiều hành vi phạm tội, tệ nạn xã hội khác.

[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết năng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình và là lao động chính trong gia đình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1,2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Năm 2013, bị cáo đã bị xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc. Chấp hành xong hình phạt, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục phạm tội, [5] Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm tiếp tục giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người tốt, biết tôn trọng pháp luật, tôn trọng tài sản của người khác, đồng thời răn đe, phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy chính quyền địa phương có xác nhận bị cáo là lao động chính trong gia đình, hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải nuôi cha già và 04 con, công việc và thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng vụ án:

Đối với số điện thoại mà đối tượng Nhỏ liên lạc với bị cáo để bán ma túy cho bị cáo, Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định dữ liệu điện tử đối với điện thoại của bị cáo Lê Thanh Q nhưng không xác định được số điện thoại của Nh nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với xe ô tô biển số 82A- 060.92 mà bị cáo Lê Thanh Q điều khiển tại thời điểm Công an kiểm tra khám xét. Xe ô tô này bị cáo và vợ Nguyễn Thị Kiều Kh mua trả góp và đang thế chấp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh V (VP Bank) – Chi nhánh Gia L để vay số tiền 290.000.000 đồng, thời hạn vay 07 năm từ 03/3/2020 đến 03/3/2027, hiện nay vợ chồng Lê Thanh Q còn nợ gốc là 222.011.170 đồng. Thực tế, khi bị cáo Q mua ma túy của Nhỏ xong, bị cáo bỏ gói thuốc lá vào túi quần bên phải, khi Công an yêu cầu dừng xe thì bị cáo lấy gói thuốc lá ném xuống lót xe ô tô (không phải bị cáo cất dấu ma túy từ ban đầu). Do đó, Hội đồng xét xử xác định chiếc xe ô tô này không phải là phương tiện phạm tội nên trả lại cho bị cáo theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 (Một) điện thoại di động dạng cảm ứng, mặt sau máy có ghi chữ VIVo của bị cáo Lê Thanh Q, bị cáo đã sử dụng để liên lạc với đối tượng tên Nh để mua ma túy, là công cụ phạm tội còn giá trị sử dụng nên tịch thu sung, nộp ngân sách Nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự.

Đối với 2.431 gam (sau giám định) là loại Methamphetamine bao gói mẫu vật được niêm phong trong phong bì số 33/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh Kon T. Đây là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự.

[8] Trong vụ án này: Đối tượng tên Nhỏ là người bán ma túy cho Lê Thanh Q. Hiện nay, chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Kon T sẽ tiếp tục xác minh và xử lý sau.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Căn cứ Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuyên bố: Bị cáo Lê Thanh Q (Tên gọi khác: Bu) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1,2 Điều 51của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Lê Thanh Q 26 (Hai mươi sáu) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (02/5/2022).

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 2.431 gam (sau giám định) là loại Methamphetamine bao gói mẫu vật được niêm phong trong phong bì số 33/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật Hình sự - Công an tỉnh K.

-Tịch thu sung, nộp ngân sách Nhà nước 01 (Một) điện thoại di động dạng cảm ứng, mặt sau máy có ghi chữ VIVo của bị cáo Lê Thanh Quang.

-Trả lại cho bị cáo Lê Thanh Q và chị Chị Nguyễn Thị Kiều Kh 01 (một) xe ô tô biển số 82A- 060.92, màu trắng, đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/8/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố K, tỉnh K và Chi cục thi hành án dân sự thành phố K, tỉnh K).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lê Thanh Q phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) 5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (20/9/2022), bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo trình tự phúc thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

65
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2022/HS-ST

Số hiệu:89/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Kon Tum - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về