Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 830/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 830/2022/HS-ST NGÀY 08/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 348/2022/TLST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 373/2022/QĐXXST-HS, ngày 12 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Minh D, sinh năm: 1991; tại Đ . Tên gọi khác: D lé.

Giới tính: Nam. Nơi cư trú: 109/6, khu phố 4 A, phường T, thành phố B, tỉnh Đ; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: không.

Tiền án: có 03 tiền án Bản án số 368/HSST, ngày 01/7/2009 của Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 03 năm 06 tháng tù giam về tội “cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/4/2011. Chưa được xóa án tích.

Bản án số 113/HSST, ngày 27/02/2014 của Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/4/2015. Chưa được xóa án tích.

Bản án số 375/HSST, ngày 22/6/2016 của Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 06 (sáu) năm tù giam về tội “Cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/02/2021. Chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không.

Con ông Nguyễn Hùng H, sinh năm 1963 (còn sống) và bà Lê Thị Thanh T, sinh năm: 1969 (còn sống). Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 03 anh em. Bị cáo chung sống như vợ như vợ chồng với chị Trần Thị Ngọc V, sinh năm 1995 và có 01 (một) con chung tên Nguyễn Bảo H, sinh năm 2013; chung sống như vợ chồng với chị Nguyễn Thị Kiều T, sinh năm 1993 và có 01 (một) con chung sinh năm 2022 nhưng chưa đặt tên.

Bị bắt tạm giữ ngày 22/4/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh số 530 ngày 28/4/2022 của Cơ quan Cảnh sát Công an thành phố B. Hiện bị cáo D đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ B. (Bị cáo D có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 h 00 ngày 21/4/2022, Nguyễn Minh D (sinh năm 1991. Nơi cư trú:

109/6, khu phố 4A, phường T, thành phố B, tỉnh Đ), đi đến khu vực cây xăng 26 thuộc phường T, thành phố B, tỉnh Đ gặp một thanh niên tên T (chưa rõ nhân thân lai lịch) mua 01 (một) gói ma túy đá giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) về để sử dụng. Khoảng 5h 00 phút ngày 22/4/2022, D dùng băng keo quấn gói ma túy nêu trên trong ốp lưng điện thoại di động của D rồi cất điện thoại trong túi quần bên trái phía trước mà D đang mặc và đi tìm bạn tại khu vực bến xe Đ thuộc phường B, thành phố B tỉnh Đ. Lúc 7h 30 phút ngày 22/4/2022, khi D đang đứng trước nhà không số thuộc tổ 14A, khu phố 2, phường B, thành phố B, tỉnh Đ thì bị Công an phường B kiểm tra phát hiện bắt quả tang D về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thu giữ và niêm phong 01 (một) gói ma túy D cất giấu trong ốp lưng điện thoại di động để trong túi quần bên trái phía trước mà D đang mặc. Công an phường BìnhĐa chuyển hồ sơ cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B xử lý theo quy định. Tại Cơ quan điều tra D đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (một) gói ma túy đã được niêm phong có chữ ký của D.

- 01 (một) chiếc xe mô tô Honda Airblade màu xanh, không biển số, qua xác minh đây là tài sản của chị Lê Thị Thanh T- mẹ ruột D chị Thúy cho D mượn để đi công việc, không biết D sử dụng thực hiện hành vi phạm tội do đó Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho chị T.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, có gắn sim điện thoại số 0981501413, số IMEI: 864647052364075. Qua xác minh đây là tài sản của chị Nguyễn Thị Kiều Th- là người sống chung như vợ chồng với D chị T cho D mượn điện thoại để sử dụng, chị T không biết hành vi phạm tội của D do đó ơ quan điều tra đã trả lại điện thoại cho chị T Số tiền 4.500.000 đồng (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng) của D không liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại kết luận giám định số 858 ngày 28 tháng 4 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố B kết luận: Mẫu chất màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,1788 gam, loại Methamphetamine.

Đối với người tên T (chưa rõ nhân thân lai lịch) bán ma túy cho Nguyễn Minh D, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Cáo trạng số: 359/CT-VKSBH ngày 02/8/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đ đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đ giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Nguyễn Minh D và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh D phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh D mức án từ 05 (năm) đến 06 (sáu) năm tù.

Xử lý vật chứng:

-Tịch thu tiêu huỷ số ma túy còn lại sau giám định theo quy định;

-Tịch thu tiêu huỷ số ma túy còn lại sau giám định (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 04 tháng 8 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B -Trả lại Nguyễn Minh D 4.500.000đồng (Bốn triệu, năm trăm nghìn đồng).

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Minh D đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên tòa, lời khai của bị cáo và các chứng cứ, tài liệu thu thập được. Khoảng 7h 30 phút ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trước nhà không số thuộc tổ 14 A, khu phố 2, phường B, thành phố B, tỉnh Đ, Công an phường B phát hiện bắt quả tang Nguyễn Minh D có hành vi tàng trữ trái phép 0,1788 gam ma túy loại Methamphetamine.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Minh D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo là người đã có tiền án về tội “trộm cắp tài sản” và 02 (hai) lần phạm tội “cố ý gây thương tích”, chưa xóa án tích đáng lẽ phải lấy đây là bài học để rèn luyện bản thân mà lại tiếp tục cố ý phạm tội là thể hiện sự coi thường pháp luật. Do vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiên nhằm cải tạo giáo dục bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có

[7] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu.

Đối với người tên T (chưa rõ nhân thân lai lịch) bán ma túy cho Nguyễn Minh D, Cơ quan Cảnh sát Công an thành phố B tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[9] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) gói ma túy đã được niêm phong có chữ ký của D.

- 01 (một) chiếc xe mô tô Honda Airblade màu xanh, không biển số, qua xác minh đây là tài sản của chị Lê Thị Thanh T- mẹ ruột D, chị T cho D mượn để đi công việc, không biết D sử dụng thực hiện hành vi phạm tội do đó Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho chị T nên không đặt ra xem xét.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, có gắn sim điện thoại số 0981501413, số IMEI: 864647052364075. Qua xác minh đây là tài sản của chị Nguyễn Thị Kiều T- là người sống chung như vợ chồng với D, chị T cho D mượn điện thoại để sử dụng, chị T không biết hành vi phạm tội của D do đó Cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại cho chị T nên không đặt ra xem xét.

-Tịch thu tiêu huỷ số ma túy còn lại sau giám định (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 04 tháng 8 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

-Trả lại Nguyễn Minh D 4.500.000 đồng (Bốn triệu, năm trăm nghìn đồng).

[10] Về án phí: Bị cáo D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh D 05 (năm) 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/4/2022.

Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

-Tịch thu tiêu huỷ số ma túy còn lại sau giám định (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 04 tháng 8 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

-Trả lại Nguyễn Minh D 4.500.000đồng (Bốn triệu, năm trăm nghìn đồng).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Minh D phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Bị cáo Nguyễn Minh D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 830/2022/HS-ST

Số hiệu:830/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về