Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 75/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 75/2022/HS-ST NGÀY 25/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Bình và điểm cầu Thành phần nhà tạm giữ Công an quận Tân Bình xét xử sơ thẩm bằng hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số 52/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. NGUYỄN KIM N, sinh năm 1974 tại Đồng Tháp; Nơi cư trú: 84/39 Đường A, Phường D, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: bán hàng trên mạng; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Thái Đắc N, sinh năm 1948 và bà: Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1950; Chồng, con: không có; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam: 17/01/2022. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. TRƯƠNG VĨNH Đ, sinh năm 1977 tại Thành phố Hồ Chí Minh, Nơi cư trú: 548/39/2 Đường B, Phường E, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trương Văn T (Đã chết) và bà Khuất Thị T1 (Đã chết); vợ: Trần Thị Lê P, con: 01 người (Sinh năm 2012); Nhân thân: Ngày 23/07/1994, Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp tài sản công dân”, nộp thu lợi bất chính 100.000 đồng (Đ 16 tuổi 01 tháng), Bản án số 787/HSST. Ngày 02/7/2001, Tòa án Nhân dân Quận 1 xử phạt 30 tháng tù giam về tội “Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy”, nộp phạt 5.000.000 đồng, Bản án số 319/HSST, đóng án phí ngày 04/5/2011, nộp phạt 100.000 đồng ngày 08/8/2013 và miễn khoản nộp 4.900.000 đồng theo Quyết định đình chỉ số 191/QĐ-CCTHA ngày 30/9/2013 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân. Ngày 11/7/2006, Tòa án Nhân dân quận Tân Bình xử phạt 01 năm 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Bản án số 95/HSST, đóng án phí tháng 01 năm 2007. Ngày 15/8/2006, Tòa án Nhân dân Quận 1 xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt trên với bản án số 95/HSST ngày 11/7/2006 của Tòa án Nhân dân quận Tân Bình là 03 năm 08 tháng tù. Bản án số 246/HSST, đóng án phí ngày 24/8/2009. Ngày 23/11/2007, Tòa án Nhân dân Quận 10 xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt trên với bản án số 246/HSST ngày 15/8/2006 của Tòa án Nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh là 05 năm 08 tháng tù, nộp phạt 5.000.000 đồng. Bản án số 240/HSST. Chấp hành xong ngày 08/02/2008, đóng án phí ngày 10/9/2014, miễn khoản nộp 4.800.000 đồng theo Quyết định đình chỉ số 168/QĐ-CCTHA ngày 30/9/2014. Ngày 29/6/2009, Tòa án Nhân dân quận Tân Bình xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Bản án số 181/HSST. Chấp hành xong ngày 08/5/2013, đóng án phí ngày 15/01/2010; Tiền án: Ngày 02/02/2016, Tòa án Nhân dân quận Bình Tân xử phạt 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, nộp phạt 10.000.000 đồng, Bản án số 56/HSST. Chấp hành xong ngày 13/8/2021;Tiền sự: không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam: 17/01/2022. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Kim N và Trương Vĩnh Đ sống chung như vợ chồng tại Phòng 402 Tòa nhà X số 783-785 Đường C, Phường F, Quận I.

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 15/01/2022, N mua 02 gói nylon ma túy gồm 01 gói ma túy đá và 01 gói ma túy khay (ketamine) của một người đàn ông không xác định lai lịch gần hẻm 783 Đường C, Phường F, Quận I với giá 5.000.000 đồng, người bán ma túy này cho thêm 01 gói nylon chứa viên nén để sử dụng thử. Sau khi mua ma túy xong, N mang về phòng 402 Tòa nhà Homaha chia 02 gói nylon ma túy vừa mua thành 11 gói ma túy nhỏ. N cất 08 gói ma túy nhỏ trong ngăn giữa của bóp màu xanh dương, còn 02 gói ma túy và gói nylon chứa viên nén N cất trong ngăn ngoài cùng của bóp màu xanh. Bóp màu xanh N cất trên nóc tủ quần áo trong phòng. Gói ma túy đá còn lại N lấy ra một ít ma túy bỏ vào nỏ thuỷ tinh gắn trong chai nước suối rồi sử dụng. N chia ma túy và sử dụng ma túy Đ không biết vì lúc đó Đ đi làm, không có ở phòng.

Đến khoảng 21 giờ 00 phút ngày 16/01/2022, Đ đi làm về phòng 402, lên gác nằm nghỉ, N đi lên cùng và lấy gói ma túy đá sử dụng chưa hết vào ngày 15/01/2022 mang lên gác, lấy một ít ma túy bỏ vào nỏ thủy tinh gắn trong chai nước suối rồi sử dụng, ma túy đá chưa sử dụng hết, N để cạnh nệm gần chỗ Đ nằm. Sau đó, N xuống gác đi tắm. Toàn bộ quá trình N lấy ma túy, sử dụng ma túy và cất gói ma túy sử dụng chưa hết gần nệm, Đ đều nhìn thấy, N đi xuống gác lúc này Đ ngồi dậy lấy bình hút còn ma túy trong nỏ thủy tinh của N để Đ sử dụng cho đến khi hết ma túy trong nỏ.

Đến khoảng 10 giờ 45 phút ngày 17/01/2022 Công an Phường 10, Quận I kiểm tra hành chính phòng 402, Đ sợ bị bắt nên nhanh chóng dùng tay lấy gói nylon ma túy để gần nệm xé gói nylon ma túy định vứt từ trên gác xuống đất để phi tang. Nhưng Công an kịp thời khống chế giữ tay Đ lại, ma túy trong lòng bàn tay Đ rơi xuống bịch nylon màu trắng trên nệm. Mục đích Đ xé gói ma túy đá để gần nệm trên gác lửng là do Đ đã sử dụng ma túy đá từ gói ma túy đó khi không có N và Đ biết đó là ma túy của N. Đ không biết N mua ma túy và cất giấu ma túy trong phòng. Đ không sử dụng ma túy chung với N, Đ sử dụng ma túy khoảng nửa tháng nay. Lời khai của Đ phù hợp với lời khai của Nguyễn Kim N.

Kết quả xét nghiệm N, Đ dương tính với chất ma túy. Thu trên tấm nệm tại gác lửng trong phòng 402 có: tinh thể không màu để trên 01 bịch nylon màu trắng. Kết luận giám định số 741/KLGĐ-MT ngày 24/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu có khối lượng: (m1) = 5,0095 gam là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine; Thu trên nóc tủ quần áo trong phòng một bóp màu xanh dương bên trong: Ngăn chính giữa có: 01 ống xúc nhựa, 08 gói nylon chứa tinh thể. Kết luận giám định số 741/KLGĐ-MT ngày 24/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu có khối lượng: (m2) = 29,7531 gam là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine; Ngăn ngoài cùng có: 02 gói nylon chứa bột màu trắng và 01 gói nylon chứa viên nén. Kết luận giám định số 741/KLGĐ-MT ngày 24/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu có khối lượng: (m3) = 0,4732 gam là ma túy ở thể rắn, loại Ketamine; 02 viên nén màu xanh có khối lượng: (m4) = 1,1065 gam là ma túy ở thể rắn, loại MDMA Nguyễn Kim N trực tiếp thực hiện hành vi cất giấu trái phép 34,7626 gam là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine; 0,4732 gam là ma túy ở thể rắn, loại Ketamine; 1,1065 gam là ma túy ở thể rắn, loại MDMA khi bị bắt quả tang.

Trương Vĩnh Đ trực tiếp thực hiện hành vi cất giấu trái phép 5,0095 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine khi bị bắt quả tang.

Quá trình điều tra Nguyễn Kim N và Trương Vĩnh Đ thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình như trên với mục đích để sử dụng.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm:

- 03 (ba) gói niêm phong, bên ngoài có đánh số 186/22 (gói 1, gói 2, gói 3) và chữ ký giám định viên (Ma túy còn lại sau giám định).

- 01 (một) bịch nylon màu trắng không chứa gì, 01 (một) cân điện tử, 10 (mười) gói nylon không chứa gì.

- 01 bóp màu xanh, 01 ống xúc bằng nhựa.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu xám, Model AXXXX FCC ID BCG E2944A IC579C E2944A (có pin + sim) - 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, số imei 1: XXXX78310247335, số imei 2: 350078312247333 (có pin + sim).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, số imei: XXXX26/89/662611/0 (có pin + sim).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme, số imei 1: XXXX50053051135, số imei 2: XXXX50053051127(có pin + sim).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng đồng, số khe sim: XXXX78097820089 (có pin + sim).

Tại bản cáo trạng số 49/CT-VKS - TB ngày 23 tháng 6 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình đã truy tố bị cáo Nguyễn Kim N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự; Truy tố bị cáo Trương Vĩnh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình nêu tóm tắt nội dung vụ án, các nguyên nhân điều kiện phát sinh tội phạm, tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, nêu các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Kim N từ 10 năm 06 tháng đến 11 năm 06 tháng tù; xử phạt bị cáo Trương Vĩnh Đ từ 08 năm đến 09 năm tù.

Về vật chứng thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, không có tranh luận gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Nguyễn Kim N và Trương Vĩnh Đ, Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Tân Bình, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; bị cáo, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, lời khai của người làm chứng cùng tang vật, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Kim N trực tiếp thực hiện hành vi cất giấu trái phép 34,7626 gam là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine; 0,4732 gam là ma túy ở thể rắn, loại Ketamine; 1,1065 gam là ma túy ở thể rắn, loại MDMA, nhằm mục đích sử dụng, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị cáo Trương Vĩnh Đ trực tiếp thực hiện hành vi cất giấu trái phép 5,0095 gam ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội. Nó không chỉ là hành vi xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, tạo điều kiện làm gia tăng tệ nạn nghiện hút ma túy trong thanh thiếu niên và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Các bị cáo đã thành niên, đủ khả năng nhận thức và biết rõ tác hại của việc cất giấu chất ma tuý để sử dụng là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị rất nghiêm khắc, nhưng chỉ vì muốn thỏa mãn cơn nghiện mà các bị cáo đã bất chấp tất cả, xem thường pháp luật và lợi ích của cộng đồng. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù nhằm mục đích cải tạo, giáo dục, tạo điều kiện cho các bị cáo cai nghiện một cách triệt để, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Hội đồng xét xử xem xét tình tiết: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về vật chứng vụ án:

- Đối với 03 (ba) gói niêm phong, bên ngoài có đánh số 186/22 (gói 1, gói 2, gói 3) và chữ ký giám định viên (Ma túy còn lại sau giám định) là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) bịch nylon màu trắng không chứa gì, 01 (một) cân điện tử, 10 (mười) gói nylon không chứa gì. N khai cân điện tử N dùng để cân bột, đường làm bánh bán trên mạng, còn 10 gói nylon không chứa gì dùng để phân ma túy thành các gói ma túy nhỏ để N sử dụng. Xét thấy các bị cáo dùng vào việc phạm tội và là vật không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 01 bóp màu xanh, 01 ống xúc bằng nhựa. N khai bóp màu xanh dùng để cất giấu ma túy, còn ống xúc bằng nhựa là dụng cụ sử dụng ma túy của N. Xét thấy các bị cáo dùng vào việc phạm tội và là vật không có giá trị nên tịch thu và tiêu hủy - Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu xám, Model AXXXX FCC ID BCG E2944A IC579C E2944A (có pin + sim): điện thoại N dùng để liên lạc gia đình, bạn bè. Xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, số imei 1: XXXX78310247335, số imei 2: XXXX78312247333 (có pin + sim): điện thoại Đ dùng để liên lạc gia đình, bạn bè. Xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, số imei: XXXX26/89/662611/0 (có pin + sim): điện thoại Đ dùng để liên lạc gia đình, bạn bè. Xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme, số imei 1: XXXX50053051135, số imei 2: XXXX50053051127(có pin + sim): điện thoại Đ dùng để liên lạc gia đình, bạn bè. Xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng đồng, số khe sim: XXXX78097820089 (có pin + sim): điện thoại Đ dùng để liên lạc gia đình, bạn bè. Xét thấy đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm h khoản 3 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Kim N;

Căn cứ điểm g, o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Trương Vĩnh Đ;

Căn cứ Điều 106; Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Luật phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

[1] Tuyên bố bị cáo Nguyễn Kim N, Trương Vĩnh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo: NGUYỄN KIM N 10 (Mười) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/01/2022.

Xử phạt bị cáo: TRƯƠNG VĨNH Đ 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/01/2022.

[2] Về xử lý tang vật của vụ án:

- Tịch thu và tiêu hủy: 03 (ba) gói niêm phong, bên ngoài có đánh số 186/22 (gói 1, gói 2, gói 3) và chữ ký giám định viên (Ma túy còn lại sau giám định); 01 (một) bịch nylon màu trắng không chứa gì, 01 (một) cân điện tử, 10 (mười) gói nylon không chứa gì; 01 bóp màu xanh, 01 ống xúc bằng nhựa.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Kim N: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu xám, Model AXXXX FCC ID BCG E2944A IC579C E2944A (có pin + sim).

- Trả lại cho bị cáo Trương Vĩnh Đ: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, số imei 1: XXXX78310247335, số imei 2: XXXX78312247333 (có pin + sim); 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, số imei: XXXX26/89/662611/0 (có pin + sim); 01 (một) điện thoại di động hiệu Realme, số imei 1: XXXX50053051135, số imei 2: XXXX50053051127 (có pin + sim; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng đồng, số khe sim: XXXX78097820089 (có pin + sim) (Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 36/PNK ngày 04/5/2022 của Đội Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an quận Tân Bình).

[3] Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[4] Trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

66
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 75/2022/HS-ST

Số hiệu:75/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về