Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 72/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N – TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 72/2022/HS-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 58/2022/TLST- HS ngày 11 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Văn Th, sinh năm 2001 tại huyện N, tỉnh Ninh Bình. Nơi cư trú: Thôn Ng, xã Gi, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông: Trần Văn Th (đã chết); Con bà: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1983; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/6/2022,đến ngày 25/6/2022 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình. (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Trần Quốc K, sinh năm 2001; Địa chỉ: Thôn Ngọc Th, xã Gi, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

- Người làm chứng: Ông Đinh Văn T, sinh năm 1972; Ông Trần Văn H, sinh năm 1954; Ông Đinh Văn Tr, sinh năm 1978.(Tất cả đều vắng)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn Th là người nghiện ma túy, loại Heroine. Khoảng 09 giờ ngày 16/6/2022, Th điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 35N1-41751 từ nhà đến khu vực thôn 8, xã Gia Lâm, huyện N để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi thì Th tìm thấy một người nam giới và hỏi “anh có ma túy không bán cho em hai trăm nghìn đồng”. Người nam giới trả lời “có đưa tiền đây”, Th lấy 200.000 đồng và đưa cho người nam giới, người nam giới cầm tiền và đưa cho Th 01 gói được gói ngoài bằng giấy bạc mầu vàng. Th mở ra kiểm tra xác định là ma túy loại Heroine nên gói lại cầm trên tay trái rồi điều khiển xe về nhà. Người bán ma túy cũng đi luôn. Khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày Th điều khiển xe đến khu vực thôn 9, xã Gia Lâm thì gặp Tổ công tác Công an xã Gia Lâm làm nhiệm vụ kiểm tra đi đến yêu cầu kiểm tra hành chính, do lo sợ Th thả từ trên tay xuống 01 được gói ngoài bằng giấy bạc mầu vàng ngay tại vị trí Th đứng, Tổ công tác yêu cầu Th nhặt lên mở ra kiểm tra. Th khai nhận là ma túy loại Heroine vừa mua về mục đích sử dụng Tổ công tác đã thu giữ 01 gói được gói ngoài bằng giấy bạc mầu vàng, bên trong có chất bột dạng cục mầu trắng. Ngoài ra Tổ công tác còn thu giữ của Th 01 bơm kim tiêm nhựa mầu trắng tại túi quần phía trước bên trái đang mặc; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda màu xanh đen biển kiểm soát 35N1-41751. Kiểm tra phương tiện xe mô tô màu xanh đen, biển kiểm soát 35N1-41751 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không phát hiện thu giữ đồ vật gì. Sau đó tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Văn Th.

Cân xác định khối lượng chất dạng cục mầu trắng chứa trong gói nhỏ gói bằng giấy bạc mầu vàng thu giữ của Th có trọng lượng 0,14gam ký hiệu M để gửi trưng cầu giám định về khối lượng và loại chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số 514/KLGĐ-PC09-MT ngày 23/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: “Mẫu chất bột dạng cục mầu trắng ký hiệu M gửi giám định có khối lượng 0,1356 (Không phẩy một nghìn ba trăm năm mươi sáu) gam là ma túy, loại Heroine.

Heroine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục I, có số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính phủ”.

Hoàn lại đối tượng giám định gồm: 0,1012 (Không phẩy một nghìn không trăm mười hai) gam còn lại trong mẫu M là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 514/KLGĐ-PC09-MT theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 64/CT-VKSNQ ngày 09/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Trần Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát huyện N tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

* Đề nghị:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự đề nghị: xử phạt bị cáo từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 16/6/2022.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 0,1012 (Không phẩy một nghìn không trăm mười hai) gam còn lại trong mẫu M là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 514/KLGĐ-PC09-MT theo quy định của pháp luật; 01 bơm kim tiêm nhựa mầu trắng loại 3ml/cc.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N.

Lời nói sau cùng của bị cáo biết lỗi về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; Kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có liên quan khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Đã đủ cơ sở pháp lý khẳng định:

Hồi 09 giờ 30 phút ngày 16/6/2022, tại khu vực đường thuộc địa phận thôn 9, xã Gia Lâm, huyện N, Trần Văn Th là người nghiện ma túy có hành vi cất giấu trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,1356 gam nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Như vậy, hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội“Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………………………………………….

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

……………………………………………..

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật cần chấp nhận.

[3]. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, tính chất vụ án là nghiêm trọng. Do đó cần xử phạt bị cáo nghiêm minh trước pháp luật bằng bản án nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục chính bản thân bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4]. Về nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

Từ những phân tích trên, xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội 1 thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tại bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Trong vụ án này, quá trình điều tra không xác định được tên, tuổi, địa chỉ của người đã bán Heroine cho Trần Văn Th nên không đủ căn cứ để xử lý theo quy định của pháp luật.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo mua bán ma túy nhằm mục đích sử dụng, không có mục đích kiếm lời vì vậy không cần áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng và áp dụng các biện pháp tư pháp khác:

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda màu xanh đen biển kiểm soát 35N-41751 xác định là tài sản hợp pháp của Anh Trần Quốc K sinh năm 2001, trú tại Thôn Ngọc Th, xã Gi, huyện N. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N đã trả lại cho anh Kỳ là đúng quy định của pháp luật.

- Đối với 0,1012 (Không phẩy một nghìn không trăm mười hai) gam còn lại trong mẫu M là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 514/KLGĐ-PC09-MT theo quy định của pháp luật; 01 bơm kim tiêm nhựa mầu trắng loại 3ml/cc. Xét đây là vật Nhà nước cấm sử dụng, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

* Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn Th 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 16/6/2022.

2. Về xử lý vật chứng và các biện pháp tƣ pháp khác:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 0,1012 (Không phẩy một nghìn không trăm mười hai) gam còn lại trong mẫu M là ma túy loại Heroine, toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong, tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 514/KLGĐ-PC09-MT theo quy định của pháp luật; 01 bơm kim tiêm nhựa mầu trắng loại 3ml/cc.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Án xử công khai sơ thẩm bị cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

92
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 72/2022/HS-ST

Số hiệu:72/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về