Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 69/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 69/2023/HS-ST NGÀY 30/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 5 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 61/2023/TLST- HS ngày 05 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2023/QĐXXST-HS ngày 18/5/2023, đối với bị cáo:

Tạ Trung N, sinh ngày 08/5/1990; Giới tính: Nam - Nơi cư trú: tổ dân phố 07, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ trước khi phạm tội đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông Tạ Quang H, sinh năm 1964 và bà Trần Nguyệt N, sinh năm 1970; Anh, chị em ruột: Có 04 người, bị cáo là thứ nhất; Vợ: Không; Con: Có 01 con, sinh năm 2015.

- Tiền án: Ngày 09/11/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang xử phạt Tạ Trung N 07 năm tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy tại Bản án số 47/2016/HSPT (xét xử phúc thẩm Bản án sơ thẩm số 78/2016/HSST ngày 09/9/2016 của Tòa án nhân dân thành phố T), chấp hành xong án phạt tù ngày 03/02/2021.

- Tiền sự, nhân thân: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/8/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Tiến T, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Tổ dân phố 4, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 11/8/2022, Tạ Trung N, trú tại tổ dân phố 07, phường T, thành phố T sử dụng ứng dụng Messenger, tài khoản “Tạ Nghĩa” nhắn tin với tài khoản “Trần Đức H” (không xác định được họ tên thật, tuổi và địa chỉ) hỏi mua 1.200.000 đồng ma túy (Methamphetamine) của H để sử dụng. H đồng ý và nói sẽ có người gọi điện cho N. Sau đó có một người đàn ông sử dụng số điện thoại 0562305791 (giới thiệu là bạn của H) nhắn tin đến số điện thoại 0865982228 của N, cung cấp tài khoản ngân hàng VietinBank số “106870035871” để N chuyển tiền mua ma túy. N truy cập ứng dụng ngân hàng trên điện thoại di động chuyển 1.200.000 đồng từ tài khoản ngân hàng MB Bank số “3890103892222” của N đến tài khoản Ngân hàng VietinBank số “106870035871” mang tên Phạm Tiến T do người đàn ông này cung cấp để thanh toán tiền mua ma túy. Người đàn ông này gọi điện cho N xác nhận đã nhận được tiền và bảo N đến lấy ma túy tại chân cột đèn thứ nhất bên phải cổng vào Đài tưởng niệm tỉnh Tuyên Quang thuộc tổ dân phố 9, phường P, thành phố T.

Khoảng 20 giờ 15 phút cùng ngày, N một mình điều khiển xe mô tô của N biển số 22B2-44912 từ nhà đến cổng Đài tưởng niệm, dựng xe ở ven đường và đi bộ vào trong Đài tưởng niệm, tìm thấy 01 gói Methamphetamine được bọc ngoài bằng nilon màu trắng, mép viền màu đỏ hàn kín, bên trong là chất tinh thể màu trắng cất giấu ở khe tường gần chân cột đèn thứ nhất bên phải cổng vào Đài tưởng niệm. N cất giấu gói ma túy trong túi quần bên phải đang mặc trên người rồi đi bộ ra nơi để xe mô tô thì bị tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Tuyên Quang phát hiện và mời về trụ sở Công an phường P, thành phố T để làm việc. Tại trụ sở Công an phường P, N tự giác giao nộp gói ma túy đang cất giấu trong túi quần. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ, niêm phong vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với N hồi 20 giờ 30 phút cùng ngày.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Tạ Trung N, kết quả (+) dương tính, có chất ma túy trong cơ thể. N khai nhận ngày 08/8/2022 đã sử dụng Methamphetamine do mua được của Hiệp.

Tại bản Kết luận giám định số 965/GĐKTHS ngày 16/8/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Mẫu vật gửi giám định (thu giữ của Tạ Trung N) là chất ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng 1,374g (Một phẩy ba bảy bốn gam).

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 141/CT-VKSTP ngày 25 tháng 11 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Tạ Trung N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Tạ Trung N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52 (tái phạm), điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Tạ Trung N từ 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù đến 2 (hai) năm tù; Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 11/8/2022. Ngoài ra, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo; Xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số methamphetamine còn lại sau giám định; Tịch thu sung quỹ Nhà nước đối với bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, loại màn hình cảm ứng, vỏ màu trắng (đã qua sử dụng) và truy thu số tiền 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng) đối với Phạm Tiến T; Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 22B2-449.12; Tuyên quyền kháng cáo của bị cáo và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, buộc bị cáo Tạ Trung N phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Tạ Trung N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục nhận tội, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết gì mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang; bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố các Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Tạ Trung N tiếp tục khai nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng thu giữ; kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 20 giờ 30 phút ngày 11/8/2022, tại khu vực tổ dân phố 09, phường P, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang, Tạ Trung N, trú tại tổ dân phố 07, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,374g (một phẩy ba bảy bốn gam) Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Bị cáo Tạ Trung N là người có năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi tàng trữ ma tuý của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; số Methamphetamine mà bị cáo cất giữ trái phép có khối lượng dưới 05 gam. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định, cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Xét thấy bị cáo có 01 tiền án tại Bản án số 47/2016/HSPT ngày 09/11/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang (xét xử phúc thẩm Bản án sơ thẩm số 78/2016/HSST ngày 09/9/2016 của Tòa án nhân dân thành phố T), bị cáo đã chấp hành xong bản án trên ngày 03/02/2021, chưa được xóa án tích. Do đó, trong lần phạm tội này, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có ông nội là Tạ Quang Giảo được tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất nên Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo Tạ Trung N đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh phòng, chống tội phạm và bài trừ tệ nạn ma tuý trên địa bàn thành phố T. Bị cáo có 01 tiền án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” nhưng không lấy đó làm bài học rút kinh nghiệm mà vẫn tiếp tục vẫn thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Do vậy, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt nghiêm khắc trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma tuý mà bị cáo tàng trữ cũng như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy mức án mà Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T.

[6] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 08/8/2022 của bị cáo Tạ Trung N, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tuyên Quang đã xử phạt vi phạm hành chính tại Quyết định số 38/QĐ-XPHC ngày 16/8/2022, hình thức phạt cảnh cáo.

Đối với Trần Đức H theo bị cáo khai là người bị cáo nhắn tin qua ứng dụng Messenger hỏi mua ma túy ngày 11/8/2022 và bán ma túy cho bị cáo ngày 08/8/2022 nhưng không xác định được họ tên thật, tuổi và địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ điều tra xử lý.

Đối với tài khoản Ngân hàng VietinBank số “106870035871” Tạ Trung N khai chuyển tiền mua ma túy: Quá trình điều tra xác định chủ tài khoản là anh Phạm Tiến T, trú tại tổ dân phố 4, phường T, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang. Anh T khai nhận năm 2019, Anh T có đăng ký, sử dụng số tài khoản trên nhưng đến tháng 5/2022, Anh T đã cho một nam thanh niên (không xác định được họ tên, tuổi và địa chỉ) mượn số tài khoản và thẻ ATM để rút tiền nhưng chưa trả lại cho Anh T, từ đó đến nay Anh T không sử dụng số tài khoản trên nữa. Anh T khẳng định không quen biết với Tạ Trung N, không mua bán ma túy với N. Tại Bản kết luận điều tra vụ án đề nghị truy tố số 128/KLĐT-MT ngày 08/11/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T và Cáo trạng số 141/CT- VKSTP ngày 25 tháng 11 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T không đề cập xử lý về trách nhiệm hình sự đối với anh Phạm Tiến T. Taị phiên tòa ngày 17/3/2023, xét thấy có căn cứ cho rằng Phạm Tiến T thực hiện hành vi mà bộ luật hình sự quy định là tội phạm liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can, thuộc trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 280 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử đã trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Tại bản kết luận điều tra bổ sung vụ án hình sự số 01/BKL-CQĐT ngày 16/4/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố T đã giữ nguyên Bản kết luận điều tra vụ án đề nghị truy tố số 128/KLĐT-MT ngày 08/11/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T. Tại công văn số 168/VKSTP ngày 05/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T với nội dung giữ nguyên quan điểm truy tố. Do vậy, HĐXX xét xử vụ án theo quy định về giới hạn xét xử quy định tại khoản 1 Điều 298 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với số điện thoại 0562305791 theo bị cáo khai nhận là người nhắn tin, gọi điện cho bị cáo, cung cấp số tài khoản để Tạ Trung N chuyển tiền mua ma túy và chỉ cho bị cáo nơi cất giấu ma túy: Quá trình điều tra xác định chủ thuê bao là bà Lò Thị P, trú tại bản Mển, xã T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Bà P khai nhận không được đăng ký và sử dụng số thuê bao trên. Bà P khẳng định không quen biết với Tạ Trung N và Trần Đức H, Bà P không được trao đổi mua bán ma túy nên không có căn cứ xem xét xử lý.

[7] Về vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 phong bì niêm phong, trên các mép dán có chữ ký của Tạ Trung N, chữ ký của các thành phần tham gia, có 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có 1,324 gam Methamphetamine (khối lượng còn lại sau khi lấy mẫu giám định) cùng bao gói là vật chứng của vụ án. Tạm giữ của bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 22B2 -449.12 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, loại màn hình cảm ứng, vỏ màu trắng. Xét thấy: Đối với khối lượng ma túy còn lại sau khi giám định là vật chứng của vụ án thuộc loại chất Nhà nước cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; Đối với Honda Wave RSX, biển kiểm soát 22B2-449.12 xét thấy bị cáo sử dụng làm phương tiện đi lại hàng ngày nên Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo; Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, loại màn hình cảm ứng, vỏ màu trắng đã thu giữ của bị cáo, bị cáo sử dụng để nhắn tin mua ma túy, xác định là công cụ phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước;

Đối với khoản tiền 1.200.000 đồng (một triệu, hai trăm nghìn đồng) bị cáo chuyển vào tài khoản của Phạm Tiến T, mục đích để mua ma túy. Tại giai đoạn điều tra bổ sung và tại phiên tòa anh Phạm Tiến T khai nhận đã sử dụng số tiền 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng) để trả tiền mua nước hoa và xác xác định nhiệm nộp lại cho cơ quan có thẩm quyền khi có yêu cầu, Hội đồng xét xử xác định đây là tiền bị cáo sử dụng vào mục đích để phạm tội nên phải truy thu số tiền 1.200.000 đồng (một triệu, hai trăm nghìn đồng) đối với anh Phạm Tiến T để sung quỹ Nhà nước.

[8] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáo Tạ Trung N phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

- Xử phạt bị cáo Tạ Trung N 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 11/8/2022.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của Tạ Trung N, chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và 05 hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Tuyên Quang, bên trong có 1,324 gam Methamphetamin (khối lượng ma túy còn lại sau khi lấy mẫu giám định).

- Tịch thu của bị cáo Tạ Trung N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X, loại màn hình cảm ứng, vỏ màu trắng, để sung quỹ Nhà nước;

- Trả lại cho bị cáo Tạ Trung N: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 22B2-449.12.

Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T ngày 29/11/2022.

- Truy thu sung quỹ Nhà nước đối với anh Phạm Tiến T số tiền 1.200.000 đồng (một triệu, hai trăm nghìn đồng) mà bị cáo Tạ Trung N đã chuyển vào tài khoản của anh Phạm Tiến T.

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Tạ Trung N phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Tạ Trung N, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Phạm Tiến T có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 30/5/2023.

(Bị cáo được kháng cáo toàn bộ nội dung vụ án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 69/2023/HS-ST

Số hiệu:69/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuyên Quang - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về