Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 67/2023/HS-ST NGÀY 25/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 7 năm 2023, tại điểm cầu Trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh Bình Thuận và điểm cầu thành phần tại Nhà tạm giữ Công an thị xã L xét xử sơ thẩm công khai (bằng hình thức trực tuyến) vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 60/2023/TLST-HS ngày 21 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn S (Tên gọi khác: T), sinh năm 1990 tại Bình Thuận;

Nơi ĐKHKTT: Khu phố 6, phường Bình Tân, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; Chỗ ở hiện nay: Khu phố 6, phường Bình Tân, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Thợ sơn; Trình độ học vấn: 6/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1965 Mẹ: Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1970;

Gia đình có 07 anh, chị, em, bị cáo là con đầu. Vợ: Đặng Thị Hồng T, sinh năm 1992 Con: Có 02 con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2018 Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 09/5/2011, bị Tòa án nhân dân thành phố P. T, tỉnh Bình Thuận xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án số 61/2011/HSST, hiện đã xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 14/4/2023, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ của Công an thị xã L. (Bị cáo có mặt tại điểm cầu thành phần tham gia phiên tòa).

* Người tham gia tố tụng khác:

Đồng chí Bùi Minh V – Cán bộ, Đội thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp Công an thị xã L, tỉnh Bình Thuận (có mặt tại điểm cầu thành phần).

Đồng chí Lê Phú C – Chuyên viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, tỉnh Bình Thuận (có mặt tại điểm cầu thành phần).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 14 giờ 40 phút, ngày 14/4/2023, Đội cảnh sát Kinh tế - Ma túy Công an thị xã L bắt quả tang bị cáo Nguyễn Văn S tại đường hẻm bê tông thuộc thôn Bình An 3, xã Tân Bình, thị xã L có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 02 bịch nilon màu trắng, có nhíp kéo viền đỏ, kích thước (04x07)cm, bên trong đều chứa tinh thể màu trắng, dạng rắn. Ngoài ra, Công an còn thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn S 01 xe mô tô hiệu DYOR màu nâu, BKS 86N1-0652, 01 ví da màu đen, 01 giấy đăng ký xe mang biển số 86N1-0652, 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Văn S.

Tại Bản kết luật giám định số 449/KL-KTHS ngày 20/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:

Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 9,9043 gam là Methamphetamine.

Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 9,8442 gam là Methamphetamine.

Về nguồn gốc số ma túy trên thì bị cáo S trình bày: Vào khoảng 14 giờ ngày 14/4/2023, bị cáo Nguyễn Văn S điều khiển xe mô tô hiệu DYOR, BKS 86N1-0652 (bị cáo S tự ý lấy xe của vợ đi) đến khu vực thôn Bình An 3, xã Tân Bình, thị xã L gặp và mua từ một người thanh niên tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) 02 bịch ma túy đá với giá 2.000.000 đồng để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được ma túy, bị cáo S cất 02 bịch ma túy vào trong túi quần phía sau bên phải rồi điều khiển xe đi về. Khi đi đến đoạn đường bê tông thuộc thôn Bình An 3, xã Tân Bình, thị xã L thì bị lực lượng Công an yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện trong túi quần phía sau bên phải của bị cáo S có chứa ma túy nên Đội Cảnh sát Kinh tế - Ma túy Công an thị xã L đã lập biên bản bắt quả tang bị cáo S cùng tang vật để xử lý theo quy định.

Về vật chứng vụ án:

- 02 bịch ni lon màu trắng, một đầu có nhíp kéo viền đỏ cùng 9,7217 gam mẫu M1 và 9,6856 gam mẫu M2 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 449 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận hiện đang được Chi cục Thi hành án dân sự thị xã L quản lý.

- Đối với 01 xe mô tô BKS 86N1-0652, 01 giấy đăng ký xe mang biển số 86N1- 0652 đã trả cho chủ sở hữu là Đặng Thị Hồng T vào ngày 23/5/2023. Đối với 01 ví da màu đen, 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Văn S đã trả cho chủ sở hữu là Nguyễn Văn S vào ngày 23/5/2023.

Sau khi phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân bị cáo; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã L giữ quyền công tố kết luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản Cáo trạng số: 68/CT-VKSLG-HS ngày 19/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố bị cáo Nguyễn Văn S, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đề nghi Hôi đồng xet xư: Tuyên bố bi cao Nguyễn Văn S pham tôi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Ap dung: Điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Phat bi cao Nguyễn Văn S mưc an tư: 06 năm đến 07 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu tiêu hủy: 02 bịch ni lon màu trắng, một đầu có nhíp kéo viền đỏ cùng 9,7217 gam mẫu M1 và 9,6856 gam mẫu M2 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 449 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận.

- Ý kiến của bị cáo Nguyễn Văn S: Đồng ý với nội dung luận tội của Kiểm sát viên nên không có ý kiến tranh luận.

* Bị cáo Nguyễn Văn S nói lời sau cùng: Bị cáo S không nói lời sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Xét thấy lời trình bày của bị cáo Nguyễn Văn S tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, đối chiếu với những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở và căn cứ pháp lý để Hội đồng xét xử kết luận: Vào khoảng 14 giờ 40 phút ngày 14.4.2023, bị cáo Nguyễn Văn S có hành vi tàng trữ trái phép 19,7485 gam Methamphetamine tại đường hẻm bê tông thuộc thôn Bình An 3, xã Tân Bình, thị xã L thì bị Đội Cảnh sát Kinh tế - Ma túy Công an thị xã L bắt quả tang, thu giữ và niêm phong tang vật để xử lý theo quy định pháp luật. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn S về tội danh, điều luật là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Tệ nạn ma tuý là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Do đó, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội. Vì vậy, bị cáo S được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bản thân bị cáo nhận thức được ma túy là chất gây nghiện, hủy hoại sức khỏe, Nhà nước nghiêm cấm hành vi tàng trữ trái phép nhưng bị cáo bất chấp pháp luật, đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm sử dụng cho bản thân. Vì vậy, cần xử lý nghiêm khắc nhằm cách ly bị cáo ra khỏi tệ nạn ma túy và đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo lánh xa ma túy và lao động, học tập, giáo dục trở thành con người có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 02 bịch ni lon màu trắng, đều có nhíp kéo một đầu màu đỏ, mỗi bịch kích thước (04x07) cm; 9,7217 gam mẫu M1 và 9,6856 gam mẫu M2 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 449 có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Hồng T và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, vì vậy cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: - Điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 14/4/2023.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 02 bịch ni lon màu trắng, đều có nhíp kéo một đầu màu đỏ, mỗi bịch kích thước (04x07) cm; 9,7217 gam mẫu M1 và 9,6856 gam mẫu M2 còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 449 có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Hồng T và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận (vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã L theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/6/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L và Chi cục thi hành án dân sự thị xã L).

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn S có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/7/2023).

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung 2014, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2023/HS-ST

Số hiệu:67/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về