Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 65/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 65/2022/HS-ST NGÀY 29/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 8 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 62/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Văn M, Tên gọi khác: Không; sinh năm 1953, tại huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: khối 7, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Nghệ An; Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/10; Con ông: Võ Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị D (đã chết); Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1969; Con: có 04 con (con lớn sinh năm 1989, con nhỏ sinh năm 1998); Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Nhân thân: Bản án số 22/2014/HSST ngày 17/4/2014 của Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An xử phạt bị cáo Võ Văn M 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt ngày 04/02/2016; Bị cáo không bị bắt, tạm giữ, tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 9 giờ 15 phút, ngày 12 tháng 05 năm 2021, tổ công tác Công an xã Lưu Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An phối hợp với Công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An tiến hành tuần tra tại khu vực xóm Lưu Diên, xã Lưu Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An thì phát hiện một đối tượng đi bộ có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã kiểm tra hành chính thì đối tượng khai tên là Lưu Văn Độ, sinh năm 1976, trú tại xóm 6, xã Trù Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An vừa sử dụng ma túy xong. Anh Lưu Văn Độ khai số ma túy Độ đã sử dụng có nguồn gốc do bị cáo Võ Văn M, sinh năm 1953, trú tại khối 7, thị trấn Đô Lương, Nghệ An cho Độ vào sáng ngày 12/5/2022.

Đến khoảng 10 giờ 45 phút cùng ngày, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An đã tiến hành Lệnh khám xét khẩn cấp số 19 ngày 12 tháng 05 năm 2022 đối với bị cáo Võ Văn M và chỗ ở của bị cáo M tại khối 7, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Nghệ An. Quá trình khám xét, đã thu giữ ở khe cửa sổ phía bên phải trong gian phòng khách hướng từ ngoài vào cửa nhà ở của bị cáo Võ Văn M gồm: 03 (ba) gói nhỏ đều được gói bằng giấy thiếc màu vàng, bên trong đều chứa chất bột màu trắng và 01 (một) gói nhỏ bằng giấy thiếc màu xanh, bên trong chứa chất bột màu trắng và thu giữ trong túi quần bên phải của Võ Văn M đang mặc số tiền 450.000 đồng (bốn trăm năm mươi nghìn đồng). Cơ quan Công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An đã tiến hành lập biên bản thu giữ vật chứng và đưa bị cáo M về trụ sở để làm việc. Bị cáo Võ Văn M khai nhận 04 (bốn) gói nhỏ thu giữ nói trên là ma túy của bị cáo M cất giấu để sử dụng nhằm giảm đau mỗi khi phát bệnh do bị cáo M mắc nhiều bệnh. Số ma túy này bị cáo M mua của một người đàn ông không quen biết (Mỹ không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu) tại khu vực khối 2, thị trấn Đô Lương, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An với giá 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng).

Ngày 12/5/2022, tại Công an huyện Đô Lương, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đô Lương đã tiến hành lập hội đồng mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại. Kết quả khối lượng chất bột màu trắng nghi là ma túy thu giữ của bị cáo Võ Văn M có khối lượng là: 1,312 gam (Một phẩy ba trăm mười hai gam). Đồng thời lấy toàn bộ 1,312 gam chất bột màu trắng gửi giám định tại Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Nghệ An.

Tại Bản kết luận giám định số 659/KL-KTHS (Đ2-MT) ngày 20 tháng 05 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: 04 (bốn) mẫu chất bột màu trắng (Ký hiệu từ A1 đến A4) thu giữ của bị cáo Võ Văn M gửi tới giám định đều là ma túy (heroine). Số chất bột màu trắng thu giữ của Võ Văn M có khối lượng là 1,312 gam (Một phẩy ba trăm mười hai gam). Mẫu cần giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Cáo trạng số 71/CT-VKS-ĐL ngày 15/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Võ Văn M về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS xử phạt bị cáo M từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù; Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo; Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS, tuyên xử: Tịch thu tiêu hủy: Vỏ phong bì niêm phong ban đầu; 03 (ba) vỏ giấy thiếc màu vàng, 01 (một) vỏ giấy thiếc màu xanh được niêm phong trong 01(một) phong bì thư màu trắng của Công an huyện Đô Lương, kích thước 17x23cm, phía sau trên các mép dán có đầy đủ chữ ký của các thành viên tham gia niêm phong và chữ ký của Võ Văn M; Trả lại cho bị cáo M số tiền 450.000 đồng bị thu giữ; Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Võ Văn M.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trang truy tố là đúng nên không tranh luận gì và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Đô Lương, của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét hành vi của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố là đúng. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên toà có cơ sở để kết luận: Vào khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 12 tháng 5 năm 2022, tại nhà ở của bị cáo Võ Văn M thuộc khối 7, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An bị cáo Võ Văn M có hành vi tàng trữ trái phép 1,312 gam ma túy Heroine. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Như vậy, hành vi của bị cáo Võ Văn M đã phạm vào tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự như Cáo trạng truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất hành vi của bị cáo:

Tội phạm mà bị cáo thực hiện thuộc loại nghiêm trọng là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng đến trật tự trị an và an toàn xã hội tại địa phương, xâm phạm đến quyền chính sách độc quyền về quản lý ma túy của nhà nước và là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý; động cơ mục đích phạm tội là tàng trữ để sử dụng nhằm giảm cơn đau khi phát bệnh. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[2.3]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo M không có tình tiết tăng năng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Mặt khác, hiện nay bị cáo M đang mắc nhiều bệnh như: Suy tim động mạch vành; viên phế quán mãn tính; hẹp động mạch đùi nông hai bên và viêm màng hoạt dịch khớp bàn chân. Bị cáo tàng trữ ma túy chỉ với mục đích sử dụng làm giảm cơn đau khi phát bệnh. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[2.4] Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội này ngoài hình phạt chính còn có hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng xét bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, không có công việc ổn định nên miễn hình phạt tiền cho bị cáo.

[2.5]. Về vật chứng: Quá trình điều tra cơ quan Điều tra Công an huyện Đô Lương đã thu giữ: 03 (ba) gói nhỏ đều được gói bằng giấy thiếc màu vàng, bên trong đều chứa chất bột màu trắng và 01 (một) gói nhỏ bằng giấy thiếc màu xanh, bên trong chứa chất bột màu trắng và thu giữ trong túi quần bên phải của Võ Văn M đang mặc số tiền 450.000 đồng (bốn trăm năm mươi nghìn đồng). Sau khi hội đồng mở niêm phong xác định khối lượng, đã lấy toàn bộ 1,312 gam chất bột màu trắng thu giữ của Võ Văn M gửi đi giám định và mẫu cần giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định. Số tiền 450.000 đồng đã tiến hành trả lại cho chủ sở hữu do không liên quan đến hành vi phạm tội là đúng quy định của pháp luật. Vật chứng còn lại gồm: Vỏ phong bì niêm phong ban đầu; 03 (ba) vỏ giấy thiếc màu vàng, 01 (một) vỏ giấy thiếc màu xanh được niêm phong trong 01(một) phong bì thư màu trắng của Công an huyện Đô Lương, kích thước 17x23cm, phía sau trên các mép dán có đầy đủ chữ ký của các thành viên tham gia niêm phong và chữ ký của đối tượng Võ Văn M không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[3] Đối với người đàn ông theo bị cáo Võ Văn M khai là người bán ma túy cho bị cáo. Tuy nhiên, quá trình điều tra Cơ quan điều tra Công an huyện Đô Lương đã điều tra xác minh nhưng tại khối 2, thị trấn Đô Lương, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An không có người đàn ông nào có đặc điểm như bị cáo mô tả. Vì vậy, không có căn cứ để xử lý, khi nào điều tra, xác minh được sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

[4] Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An về việc giải quyết toàn diện vụ án là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Về án phí: Bị cáo Võ Văn M là người cao tuổi nên thuộc đối tượng được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015; Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

- Tuyên bố: Bị cáo Võ Văn M phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

- Xử phạt: Bị cáo Võ Văn M 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

- Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Võ Văn M.

- Về vật chứng: Tịch tịch thu tiêu hủyVỏ phong bì niêm phong ban đầu; 03 (ba) vỏ giấy thiếc màu vàng, 01 (một) vỏ giấy thiếc màu xanh được niêm phong trong 01(một) phong bì thư màu trắng của Công an huyện Đô Lương, kích thước 17x23cm, phía sau trên các mép dán có đầy đủ chữ ký của các thành viên tham gia niêm phong và chữ ký của đối tượng Võ Văn M. (Theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 15/8/2022, giữa Công an huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An).

- Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Võ Văn M.

- Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

67
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 65/2022/HS-ST

Số hiệu:65/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đô Lương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về