Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 63/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM SÁCH, TỈNH HẢI DƯƠNG

 BẢN ÁN 63/2023/HS-ST NGÀY 13/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 8 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm - trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương; điểm cầu thành phần Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương, Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 57/2023/TLST- HS ngày 28 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2023, đối với bị cáo:

Nguyễn Đại L, sinh năm 1991; Tên gọi khác: Không; Nơi sinh: Thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khối HĐ, thị trấn TG, huyện TD, tỉnh NA; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12; Con ông: Nguyễn Đại B và bà Lê Thị Q; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 112/HSST ngày 26/11/2015, Tòa án nhân dân huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An xử phạt 10 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. (bị cáo L đã chấp hành xong bản án). Bản án số 30/HSST ngày 12/5/2020, Tòa án nhân dân huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An xử phạt 10 tháng tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. (Bị cáo L đã chấp hành xong bản án ngày 07/12/2020).

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/5/2023 đến ngày 05/5/2023 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương đến nay.

Bị cáo có mặt.

* Người làm chứng: Anh Bùi Văn Nh, sinh năm 1987.

* Người chứng kiến: Anh Nguyễn Trọng T, sinh năm 1980. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 17 giờ ngày 04/05/2023, Nguyễn Đại L nảy sinh ý định đi mua ma túy về sử dụng nên đã đi từ phòng trọ (ở khu Nt, phường TM, thành phố HD) ra đầu ngõ và gặp anh Bùi Văn Nh đang ngồi bán nước. L nhờ anh Nh chở đi có việc và sẽ trả công 50.000đồng. Anh Nh đồng ý. Anh Nh sử dụng xe mô tô của mình, chở L đến đường thôn Mạc Xá, xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, L bảo anh Nh đứng chờ, còn L đi vào phía trong ngõ. Tại đó, L gặp một người phụ nữ (không rõ tên, tuổi, địa chỉ). L hỏi mua 300.000đồng ma túy đá, người phụ nữ đưa cho L một túi nilon màu trắng. L cầm trên tay trái đi ra chỗ anh Nh đứng chờ. Khoảng 17 giờ 45 phút cùng ngày, L bị lực lượng Công an xã Minh Tân phát hiện, bắt quả tang, thu giữ trên tay trái của L 01 gói nilon màu trắng, kích thước (2x2,5)cm, bên trong có chứa tinh thể rắn, L khai nhận là ma túy đá, L mua về sử dụng cho bản thân.

Tại bản Kết luận giám định số 255/KL-KTHS ngày 05/05/2023, của Phòng PC09 Công an tỉnh Hải Dương, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì thư, gửi đến giám định có khối lượng 0,551gam là ma túy, loại Methamphetamine. Hoàn lại 0,500gam Methamphetamine, 01 túi nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật trong phong bì niêm phong.

Tại Cáo trạng số 63/CT-VKS-NS ngày 28/7/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách truy tố bị cáo Nguyễn Đại L ra trước toà để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình công nhận quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách là đúng. Bị cáo xác định đã có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy đá để sử dụng cho bản thân. Bị cáo nhận thức được hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật. Bị cáo không bị oan.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đại L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc Hội đối với bị cáo. Xử phạt Nguyễn Đại L từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, ngày 04/5/2023. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng; Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu cho tiêu hủy: 01 Phong bì niêm phong bên trong có 0,500gam Methamphetamine, 01 túi nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong. Bị cáo L phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an huyện Nam Sách, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của chính bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 17 giờ 45 ngày 04/5/2023, tại đường liên thôn thuộc thôn Mạc Xá, xã Minh Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Đại L đã có hành vi cất giấu 01 túi nilon màu trắng có kích thước 02cm x 2,5cm, bên trong có 0,551gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Công an xã Minh Tân, huyện Nam Sách bắt quả tang, thu giữa vật chứng.

Bị cáo L là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi cất giấu trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật song vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích sử dụng. Do đó, hành vi của bị cáo L đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách truy tố đối với bị cáo Nguyễn Đại L là có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự tại địa phương nên cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật hình sự.

[4] Xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, bị cáo có hai lần bị Tòa án xét xử bằng bản án và đã phải chấp hành án, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt chính là phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Đối với 01 Phong bì niêm phong số 255/KL-KTHS của phòng PC09-Công an tỉnh Hải Dương, bên trong có 0,500gam Methamphetamine, 01 túi nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong mấu vật hoàn lại sau giám định là những vật cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng cần tịch thu cho tiêu hủy.

[8] Anh Bùi Văn Nh không biết bị cáo L thuê chở đi để mua ma túy sử dụng; Người bán ma túy cho L không xác định được nhân thân nên không có căn cứ xử lý. [9] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự;

2. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đại L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

3. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đại L 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, ngày 04/05/2023.

4. Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu cho tiêu hủy: 01 Phong bì niêm phong số 255/KL-KTHS của phòng PC09-Công an tỉnh Hải Dương, bên trong có 0,500gam Methamphetamine, 01 túi nilon màu trắng, 01 vỏ phong bì niêm phong mấu vật hoàn lại sau giám định.

(Đặc điểm của vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách với Chi cục thi hành án dân sự huyện Nam Sách).

5. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố Tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Bị cáo Nguyễn Đại L phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

89
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 63/2023/HS-ST

Số hiệu:63/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Sách - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về