Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 63/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 63/2023/HS-ST NGÀY 16/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số 48/2023/TLST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2023/HSST-QĐ ngày 02 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

Tạ Xuân Ph., sinh ngày 04/3/1987 tại huyện Đ., tỉnh Phú Thọ. Nơi cư trú: Khu 1, xã M, huyện Đ, tỉnh Phú Thọ; giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 12/12; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Tạ Quang N, sinh năm 1951 và bà: Vũ Thị Đ, sinh năm 1952; Vợ: Tăng Thị H, sinh năm 1996; con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2019; anh chị em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ hai; tiền sự: Không.

Tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 67/2021/HSST ngày 20/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang xử phạt Tạ Xuân Ph. 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 25/01/2022 bị cáo chấp hành xong bản án.

Nhân thân:

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2011/HSST ngày 13/4/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Điện Biên xử phạt Tạ Xuân Ph. 28 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 02/12/2012, bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án.

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2013/HSST ngày 26/11/2013 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Tạ Xuân Ph. 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 08/8/2014 bị cáo chấp hành xong khoản tiền án phí HSST.

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 58/2013/HSST ngày 31/12/2013 của Tòa án nhân dân huyện Tr, tỉnh Phú Thọ xử phạt Tạ Xuân Ph. 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tổng hợp hình phạt 02 năm tù tại bản án số 60/2013/HSST ngày 26/11/2013 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 bản án là 48 tháng tù. Ngày 28/8/2017, bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/01/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 05/01/2023, bị cáo Tạ Xuân Ph. điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA, kiểu dáng Wave, mầu đỏ xám, biển số 20N7-7261 (xe của bị cáo) đi từ nhà đến khu vực ngã ba xã S, huyện Sơn Dương tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây bị cáo gặp và mua của một người đàn ông không biết họ tên, địa chỉ 01 túi nilon mầu trắng bên trong có gói giấy bạc màu vàng có chứa chất bột vón cục mầu trắng ngà với số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng). Bị cáo cất số ma túy vừa mua được vào túi áo bên phải đang mặc rồi đi về nhà. Khi đi đến đoạn đường ĐT186 thuộc thôn T, xã P, huyện S. thì bị tổ công tác Công an xã P. phát hiện, nghi ngờ bị cáo có cất giấu ma túy tổ công tác đã mời bị cáo về trụ sở Công an xã làm việc. Tại đây bị cáo đã tự giác giao nộp gói ma túy vừa mua. Hồi 17 giờ cùng ngày, Công an xã P. đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo Tạ Xuân Ph.. Thu giữ của bị cáo 01 gói ma túy và 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA biển số 20N7-7261.

Tiến hành xét nghiệm tìm nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể bị cáo Tạ Xuân Ph., kết quả (+) dương tính với chất ma túy (Heroine). Bị cáo khai nhận ngày 04/01/2023 đã sử dụng ma túy tại khu vực huyện Đ., tỉnh Phú Thọ.

Tại Kết luận giám định số 133/KL-GĐKTHS ngày 09/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang, kết luận: Số chất bột vón cục màu trắng ngà thu giữ của Tạ Xuân Ph. gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,550g (không phẩy năm năm không gam).

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 55/CT-VKSSD ngày 06 tháng 4 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang đã truy tố bị cáo Tạ Xuân Ph. về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Tạ Xuân Ph. và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Tạ Xuân Ph. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Tạ Xuân Ph. từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong chứa ma túy là tang vật của vụ án. Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô biển số 20N7-7261 là tài sản của bị cáo nhưng giữ lại để đảm bảo việc thi hành án.

Ngoài ra, đại diện viện kiểm sát còn đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Tạ Xuân Ph. đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung cáo trạng truy tố; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì, nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình. Khi nói lời sau cùng bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và nội dung cáo trạng truy tố. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh qua biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 17 giờ ngày 05/01/2023, tại đường ĐT186 thuộc thôn T, xã P, huyện S., tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Tạ Xuân Ph. đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,550g (không phẩy năm năm không gam) Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân.

Bị cáo Tạ Xuân Ph. là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy nhưng vẫn tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, đây là lỗi cố ý trực tiếp. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, có căn cứ chấp nhận.

[2]. Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng Tái phạm quy định tại đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52 - Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Người phạm tội thành khẩn khai báo, có bố đẻ được chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ tặng thưởng Bằng khen Kháng chiến quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 - Bộ luật Hình sự.

[3]. Về mức án đối với bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là một trong những nguyên nhân thường gây ra các tội phạm, tệ nạn xã hội khác nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình. Bị cáo có nhân thân xấu, 03 lần bị Tòa án nhân dân xét xử hình phạt tù về tội Trộm cắp tài sản và có 01 tiền án vè tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo không lấy đó làm bài học cải tạo bản thân còn phạm tội mới, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm. Vì vậy, cần có mức án nghiêm khắc tương xứng hành vi phạm tội của bị cáo..

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm trong hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với bị cáo, Hội đồng xét xử xét mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo Tạ Xuân Ph. không có tài sản gì có giá trị, bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân, không có mục đích vụ lợi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ của bị cáo 0,550g gam (không phẩy năm năm không gam) Heroine. Sau khi lấy đi giám định số còn lại cùng bao bì được niêm phong trong một phong bì có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và chữ ký của bị cáo. Đây là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, kiểu dáng Wave, mầu đỏ xám, biển số 20N7-7261, đây là tài sản của bị cáo cần tuyên trả lại cho bị cáo nhưng giữ lại để đảm bảo việc Thi hành án.

[6]. Về các vấn đề khác:

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Tạ Xuân Ph. tại huyện Đ., tỉnh Phú Thọ, Công an huyện Sơn Dương đã chuyển hồ sơ, tài liệu đến Công an huyện Đ., tỉnh Phú Thọ để xử lý theo thẩm quyền.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo tại khu vực ngã ba xã S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, do không xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để điều tra xử lý.

Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hành quyền công tố. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo Tạ Xuân Ph. phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) và được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 - Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố: Bị cáo Tạ Xuân Ph. phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Tạ Xuân Ph. 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (05/01/2023).

2. Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong bên trong có chứa Heroine, ngoài bì có dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang và chữ ký của bị cáo là vật chứng của vụ án thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành.

- Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, kiểu dáng Wave, mầu đỏ xám, biển số 20N7-7261 là tài sản của bị cáo nhưng giữ lại để đảm bảo việc Thi hành án. (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Sơn Dương với Chi cục thi hành án dân sự huyện Sơn Dương ngày 06/4/2023).

3. Căn cứ vào Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Bị cáo Tạ Xuân Ph. phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

92
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 63/2023/HS-ST

Số hiệu:63/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về