Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 55/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 55/2023/HS-ST NGÀY 06/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 44/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2023/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Phan Gia Q, sinh ngày 09/10/2003 tại Cà Mau. Nơi cư trú: Khóm D, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Minh C và bà Đỗ Thị Mộng T; chưa có vợ, con; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị bắt quả tang ngày 13/02/2023 sau đó chuyển tạm giam đến nay, bị cáo có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Võ Bé N là Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh C (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ ngày 13/02/2023, Phan Gia Q đi bộ từ nhà đến tiệm Internet C1 thuộc khóm G, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau để chơi game. Tại đây, Q gặp và quen N1 hai người cùng nhau chơi game thì N1 rủ Q sử dụng ma túy Q đồng ý nên N1 chạy xe đi mua (ở đâu Q không rõ), một lúc sau N1 quay lại cầm trên tay 01 bịch ma túy dạng khay (Ketamine) Nghé mua giá 1.000.000 đồng hai người thoả thuận chia đôi số tiền này. Sau đó, N1 điều khiển xe chở Q đến nhà của ai Q không rõ rồi cùng sử dụng ma túy, sau khi sử dụng ma túy xong Q đi về nhà bạn là Lê Hoàng P ở khóm G, thị trấn S để ngủ. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, Q mượn xe P để đi chơi thì P nói xe đã cầm ở tiệm. Vì vậy, Q đi bộ đến nhà trọ của N2 (không rõ nhân thân lai lịch) ở cùng khóm P để mượn tiền chuộc xe thì N2 đồng ý cho mượn 4.000.000 đồng rồi điều khiển xe chở Q đến nhà đưa tiền cho P chuộc xe.

Sau khi đưa tiền cho P xong N2 chở Q về nhà trọ và gặp K em họ của N2 nên Q mượn K thẻ ATM để khi mua được ma túy Q sẽ dùng thẻ ATM phân chia ma túy ra sử dụng còn N2 điều khiển xe chở K đến nhà P để mượn xe P về giao lại cho Q thì N1 điện thoại hỏi số tiền mua ma túy tối qua và rủ Q tiếp tục sử dụng thì Q đồng ý. Lúc này, Q điều khiển xe Sonic của P đến nhà mượn lại P 3.500.000 đồng P đưa lại tiền và yêu cầu Q trả lại xe nên Q điều khiển xe đến tiệm Internet C1 gặp N1 trả lại 500.000 đồng tiền hùn mua ma túy trước đó, N1 rủ Q đi Khách sạn Trung Kiên hát và sử dụng ma túy Q đồng ý và đưa N1 3.000.000 đồng để mua ma túy, N1 nhận tiền rồi điều khiển xe đi mua ma túy còn Q điều khiển xe Sonic về nhà trọ N2 và kêu đem trả lại P rồi Q đi bộ lại tiệm Internet C1 đợi N1. Một lúc sau, N1 đến đưa cho Q 01 bịch nilon có chứa 03 viên nén màu nâu và 01 bịch nilon có chứa chất bột màu trắng, Q lấy bỏ vào túi đeo chéo bằng da màu đen – xám đang đeo trước người. Sau đó, N1 điều khiển xe chở Q đến trước cổng Karaoke T, thuộc khóm A, thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau, N1 kêu Q vào trước còn N1 điều khiển xe chạy đi công chuyện, Q đứng trước cổng đợi N1 thì lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang Q đang tàng trữ trái phép chất ma túy.

Quá trình điều tra thu giữ các vật chứng: 01 đĩa nhựa màu trắng; 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh dài 8,6cm; 01 thẻ ATM ngân hàng S bằng nhựa màu vàng, có tên NGUYEN TRONG KHA; 01 túi đeo chéo hình ô vuông màu đen – xám có logo bằng nhôm màu đen có chữ “® LOUIS VUITTON PARIS”; 01 phong bì thư hoàn mẫu số 73/KL-KTHS ngày 16/02/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh C, bên trong gồm 0,7422gam chất bột màu trắng sau khi giám định và không lưu; 01 phong bì thư hình chữ nhật; 01 bọc nilon màu trắng có viền đỏ.

Kết luận giám định số 73/KL-KTHS ngày 16/02/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh C kết luận:

Chất bột màu trắng bên trong bọc nilon màu trắng có viền đỏ được bóp kín miệng, niêm phong trong phong bì thư hình chữ nhật gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,0637 gam, loại Ketamine.

03 (ba) viên nén màu nâu dạng hình tam giác bên trong bọc nilon màu trắng có viền đỏ được bóp kín miệng, niêm phong trong phong bì thư hình chữ nhật gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,7160gam, loại MDMA.

Cáo trạng số 52/CT-VKS ngày 23/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn T1 truy tố bị cáo Phan Gia Q về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Viện kiểm sát vẫn giữ quan điểm truy tố bị cáo theo Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự phạt bị cáo Phan Gia Q từ 01 năm đến 02 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 đĩa nhựa màu trắng, 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh dài 8,6cm, 01 túi đeo chéo hình ô vuông màu đen – xám có logo bằng nhôm màu đen có chữ “® LOUIS VUITTON PARIS” thu giữ của Phan Gia Q; 01 phong bì thư hoàn mẫu bên trong gồm 0,7422gam chất bột màu trắng sau khi giám định và không lưu, 01 phong bì thư hình chữ nhật, 01 bọc nilon màu trắng có viền đỏ.

Trả lại cho bị cáo: 01 thẻ ATM ngân hàng S bằng nhựa màu vàng có tên NGUYEN TRONG KHA do bị cáo có yêu cầu nhận lại.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận, hộ gia đình bị cáo thuộc diện hộ nghèo và thống nhất bà Võ Bé N thực hiện việc bào chữa cho bị cáo. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo biết lỗi và yêu cầu giảm nhẹ hình phạt.

Ý kiến người bào chữa cho bị cáo: Thống nhất với tội danh Viện kiểm trát truy tố đối với bị cáo. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải, chưa tiền án, tiền sự. Bản thân bị cáo thiếu sự chăm sóc, giáo dục từ phía gia đình, bị cáo có học vấn thấp, thiếu hiểu biết về pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất nhằm tạo điều kiện để bị cáo sửa chữa, khắc phục sai phạm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Văn T1, Kiểm sát viên trong quá trình tiến hành tố tụng đảm bảo thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại hoặc yêu cầu gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng; hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên được xác định là hợp pháp.

[2] Căn cứ lời khai của bị cáo tại phiên tòa và tài liệu thu thập được có đủ cơ sở kết luận bị cáo có hùn tiền với N1 mua ma túy để sử dụng và sau đó bị cáo có đưa thêm tiền cho N1 tiếp tục mua ma túy để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang vào ngày 13/02/2023, thu giữ trên người của bị cáo với tổng khối lượng ma túy là 1,0637 gam loại Ketamine và 0,7160gam loại MDMA. Như vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm về khối lượng ma túy thu giữ trên người của bị cáo và hành vi của bị cáo đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm quy định thống nhất, độc quyền của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, vi phạm pháp luật hình sự. Mặc dù, bị cáo biết những tác hại của ma túy nhưng chỉ vì muốn thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên bị cáo đã bất chấp và thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, bị cáo đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

[4] Ma túy là chất gây nghiện, có tác hại rất lớn đối với con người và cộng đồng xã hội, mặc dù các cơ quan chức năng đã thực hiện nhiều biện pháp để phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn đẩy lùi các tệ nạn và tội phạm về ma túy nhưng trên thực tế loại tội phạm này vẫn còn xảy ra. Để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung thì cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhằm giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, góp phần vào công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; bị cáo không có tiền án, tiền sự; bị cáo thành khẩn khai báo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa cho bị cáo là có căn cứ, đúng quy định pháp luật, nên chấp nhận.

[6] Qua xem xét về nhân thân, điều kiện và hoàn cảnh kinh tế của bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[7] Hành vi sử dụng ma túy của bị cáo đã bị xử phạt hành chính nên không đặt ra. Đối với Lê Hoàng P quá trình điều tra có đủ căn cứ xác định P không có liên quan đến vụ án nên nên không đề cập xử lý.

Riêng đối tượng tên N1, N2 và K hiện chưa xác định được nhân thân đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục làm rõ để xử lý theo quy định.

[8] Về vật chứng, tài sản thu giữ: 01 phong bì thư hoàn mẫu bên trong gồm 0,7422gam chất bột màu trắng sau khi giám định và không lưu, 01 phong bì thư hình chữ nhật, 01 bọc nilon màu trắng có viền đỏ là vật cấm lưu hành; 01 đĩa nhựa màu trắng, 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh dài 8,6cm, 01 túi đeo chéo hình ô vuông màu đen – xám có logo bằng nhôm màu đen có chữ “® LOUIS VUITTON PARIS” không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy; đối với 01 thẻ ATM ngân hàng S bằng nhựa màu vàng có tên NGUYEN TRONG KHA tại phiên tòa bị cáo yêu cầu nhận lại nên trả lại cho bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a và điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Do bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a và điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, khoản 1 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên bố bị cáo Phan Gia Quy phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Phan Gia Q 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành tính từ ngày 13/02/2023.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 đĩa nhựa màu trắng, 01 đoạn ống hút nhựa màu xanh dài 8,6cm, 01 túi đeo chéo hình ô vuông màu đen – xám có logo bằng nhôm màu đen có chữ “® LOUIS VUITTON PARIS”; 01 phong bì thư hoàn mẫu bên trong gồm 0,7422gam chất bột màu trắng sau khi giám định và không lưu, 01 phong bì thư hình chữ nhật, 01 bọc nilon màu trắng có viền đỏ.

Trả lại cho bị cáo: 01 thẻ ATM ngân hàng S bằng nhựa màu vàng có tên NGUYEN TRONG KHA.

(Vật chứng, tài sản hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời quản lý theo biên bản giao nhận ngày 24/5/2023).

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

36
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 55/2023/HS-ST

Số hiệu:55/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về