Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

 BẢN ÁN 52/2023/HS-ST NGÀY 18/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 5 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 45/2023/TLST- HS ngày 21 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2023/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tạ Đình T, sinh ngày 21/11/19xx, tại huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Nơi cư trú: , huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Tạ Đình Q, sinh năm 1960 và bà Tô Thị H, sinh năm 1962. Có vợ là Mai Thị D, sinh năm 1985; Đều trú tại thôn huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Bị cáo có 03 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2015; Tiền án: Không. Tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 07/11/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng, đến ngày 26/4/2018 chấp hành xong. Tại Bản án số 115/HSST ngày 25/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình bị xử 01 năm 6 tháng tù giam về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 03/11/2020 bị can chấp hành xong án phạt tù về địa phương. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 05/01/2023 đến ngày 08/01/2023 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình. Bị cáo được dẫn giải có mặt tại phiên tòa.

Người chứng kiến:

- Anh Đặng Tân T1, sinh năm 19xx (Vắng mặt).

Nơi cư trú: , huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

- Anh Nhâm Hoàng T2, sinh năm 19xx (Vắng mặt).

Nơi cư trú: huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ ngày 05/01/2023, Tạ Đình T đi từ nhà đến khu vực cầu Phao, sông Hóa thuộc địa phận huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Tại đây T gặp và mua được của một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên, địa chỉ 03 gói ma túy loại Heroin, có khối lượng 0,2415 gam với giá 200.000 đồng, sau đó T cất giấu 03 gói ma túy vào trong túi áo khoác bên trái đang mặc và đi nhờ xe mô tô của người đi đường về nhà. Đến khoảng 08 giờ 20 phút cùng ngày khi T về đến đầu làng Quang Lang Đoài, xã Thụy Hải, T xuống xe đi bộ thì bị tổ công tác của Đồn Biên phòng cửa khẩu cảng Diêm Điền; Đội đặc nhiệm phòng phòng phòng chống ma túy và tội phạm Bộ đội Biên phòng tỉnh Thái Bình phối hợp với Công an xã Thụy Hải đang làm nhiệm vụ tuần tra phát hiện. Tại đây, trước sự chứng kiến của anh Đặng Tân T1 và anh Nhâm Hoàng T2. T tự giác lấy từ trong túi áo khoác bên trái phía trước đang mặc 03 gói được gói bằng giấy trắng, bên trong đều chứa chất bột màu trắng dạng cục. T khai đó là ma túy, loại Heroin của T vừa mua về để sử dụng cho bản thân. Công an tiến hành kiểm tra người T nhưng không phát hiện thu giữ gì khác. Tổ công tác Bộ đội Biên phòng đã niêm phong vật chứng đồng thời đưa T và mời những người chứng kiến về trụ sở Công an xã Thụy Hải lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và làm các thủ tục khác theo quy định của pháp luật. Cùng ngày, Đồn Biên phòng cửa khẩu cảng Diêm Điền tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của T nhưng không phát hiện thu giữ gì liên quan đến ma túy.

Bản kết luận giám định số Kết luận giám định số 16/KL-KTHS ngày 06/01/2023 kết luận "vật chứng gửi giám định là ma túy, loại Heroin, có khối lượng 0,2415 gam".Heroine STT:09, Danh mục IA phụ lục kèm theo Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 28/5/2022 của Chính phủ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi của mình như bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận giám định trên.

Bản cáo trạng số 45/CT-VKSTT ngày 20/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố bị cáo Tạ Đình T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát huyện Thái Thụy giữ nguyên quyết định truy tố đối với Tạ Đình T và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Tạ Đình T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; Điều 35; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Tạ Đình T mức án từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Đề nghị xử phạt bị cáo từ 5 đến 7 triệu đồng.

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến gì về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, xử lý vật chứng và không tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đã nhận ra lỗi lầm của bản thân, xin Hội đồng xét xử giảm án cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tố tụng, của người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền,trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến đề nghị, khiếu nại gì. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của các Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi tàng trữ 0,2415 gam ma túy, loại Heroine để sử dụng và bị bắt quả tang. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người chứng kiến là anh Đặng Tân T1 và anh Nhâm Hoàng T2. Ngoài ra, còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong đồ vật do Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình lập; Kết luận giám định số số 16/KL-KTHS(MT) ngày 06/01/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Hành vi của bị cáo đã xâm hại quyền quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất gây nghiện. Bị cáo đã trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.

[4] Từ những căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Tạ Đình T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự;

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” [5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về hình phạt chính: Ma túy là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến đại dịch HIV/AIDS đồng thời là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác. Hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Do vậy, bị cáo phải chịu mức án tương xứng với hành vi phạm tội của mình và cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân tốt, có ích cho xã hội đồng thời đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo đã từng bị kết án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng vẫn tiếp tục vi phạm nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Tuy nhiên, lượng ma túy bị cáo tàng trữ nhỏ, mục đích để sử dụng cho bản thân nên áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt, xử phạt bị cáo số tiền 5.000.000 đồng là phù hợp.

[8] Về nguồn gốc số ma tuý: Trong vụ án này, Tạ Đình T khai mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi, không biết tên địa chỉ, đặc điểm nhận dạng ở khu vực cầu Phao sông Hóa thuộc địa phận huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ điều tra, xác minh để xử lý.

[9] Về vật chứng: Số ma túy thu giữ của bị cáo sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí và quyền kháng cáo bản án: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; khoản 2 Điều 35; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Điều 135; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Tạ Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Tạ Đình T 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/01/2023. Xử phạt bổ sung bị cáo Tạ Đình T số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

4. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định là 0,2085 gam heroine. (Có đặc điểm ghi trong biên bản giao nhận vật chứng tại Chi cục Thi hành án huyện Thái Thụy ngày 21/4/2023).

5. Về án phí: Bị cáo Tạ Đình T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Tạ Đình T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 18/5/2023.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 52/2023/HS-ST

Số hiệu:52/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về