Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 464/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH Đ

BẢN ÁN 464/2022/HS-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 425/2022/TLST-HS ngày 19 tháng 9 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 459/2022/QĐXXST-HS, ngày 19 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Chí N, sinh năm: 06/01/1999; tại tỉnh C. Tên gọi khác:

Giới tính: Nam. Nơi thường trú: Ấp 19, xã N, huyện U, tỉnh C; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Bảo vệ.

Tiền án: Không. Tiền sự: Không.

Con ông Lê Minh X, sinh năm 1967 (còn sống) và bà Lê Hồng N, sinh năm: 1970 (còn sống). Bị cáo là con út trong gia đình có 3 chị em. Bị cáo chưa có vợ con. Hiện bị cáo N đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Biên Hòa. (Bị cáo N có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Chí N là đối tượng thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy. Vào lúc 16 giờ ngày 25/5/2022 tại tiệm tóc Duy P thuộc đường Y, xã H, huyện T, tỉnh Đ N gặp một người tên D (là bạn bè ngoài xã hội, không rõ nhân thân lai lịch) hỏi N có lấy ma túy không, sau đó D đưa cho Nguyện 05 gói ma túy và nói với N bao giờ có tiền thì trả sau. Đến khoảng 17 giờ 25 cùng ngày, N mang số ma túy trên về phòng trọ của mình tại địa chỉ 173/438/12T tổ 1, khu phố 8, phường L, thành phố B, tỉnh Đ và lấy 01 phần ra sử dụng, số còn lại N cất giấu 01 gói ma túy trong bóp tiền của N; 02 gói để trên nệm trong phòng trọ; 01 gói để sát tường bên phải của nhà vệ sinh; 01 gói ma túy đã sử dụng một phần để bên cạnh bộ dụng cụ sử dụng ma túy. Đến 18 giờ 10 phút ngày 25/5/2022, phòng PC 04 Công an tỉnh Đ phối hợp với Công an phường L, thành phố B, tỉ nh Đ kiểm tra hành chính tại phòng trọ N ở, phát hiện bắt quả tang N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ 04 gói nilon ma túy (01 gói thu giữ trong bóp, 02 gói trên đệm, 01 gói trên nền nhà sát tường bên phải trước nhà vệ sinh). Ngoài ra quá trình khám xét còn thu giữ thêm một gói bên c ạnh dụng cụ ma túy dưới nền gần kệ bếp). Tại cơ quan điều tra N khai nhận hành vi phạm tôi nêu trên.

Vật chứng thu giữ, xử lý vật chứng:

- 04 (bốn) gói ma túy (thu giữ 01 gói trong bóp, 02 gói trên đêm; 01 gói trên nền nhà sát tường bên phải trước nhà vệ sinh (được niêm phong có mộc đỏ của công an Phường L và chữ ký của Lê Chí N) được ký hiệu là M1.

- 01 (một) gói ma túy (thu giữ bên cạnh dụng cụ ma túy dưới nền gần kệ bếp) (được niêm phong có mộc đỏ của công an phương L và chữ ký của Lê Chí N) được ký hiệu là M2.

- 01 (một) dụng cụ sử dụng ma túy đá.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh có số sim 0274142310, số IEME1 1:861428051179597, số IEME1 2: 861428051179589.

- 01 (một) chứng minh nhân dân tên Lê Chí N.

Tại Kết luận giám định số 1081/KL-KTHS ngày 31/5/2011 của Phòng Kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Đ đã kết luận:

“Mẫu chất màu trắng (Kí hiêu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1309 gam, loại Methamphetamine”.

“Mẫu chất màu trắng (Kí hiêu M2) được niêm pho ng gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,4383gam, loại Methamphetamine”.

Đối với đối tượng tên Duy bán ma túy cho Lê Chí N, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau.

Cáo trạng số 435/CT-VKSBH-HS ngày 13/9/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đ đã truy tố bị cáo Lê Chí N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đ giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố. Đề nghị, Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bô luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, tuyên bố bị cáo Lê Chí N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, xử phạt bị cáo N mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù giam.

Tịch thu tiêu huỷ số ma túy còn lại s au giám định và một bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

Trả lại một điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh có số sim 0274142310, số IEME1 1:861428051179597, số IEME1 2: 861428051179589 và một c hứng minh nhân dân cho Lê Chí N do không liên quan đến hành vi phạm tội.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/9/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B).

Xử lý vật chứng:

-Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu giữ sau giám định và một dung cụ sử dụng ma túy đá;

Trả lại một điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh có số IEEMI 1:

861428051179597, số IEEMI 2: 861428051179589 và một chứng minh nhân dân cho Lê Chí N do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Lê Chí N đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên tòa, lời khai của bị cáo và các chứng cứ, tài liệu thu thập được. Vào lúc 8 giờ 10 phút ngày 25/5/2022, tại phòng trọ số 173/438/12T tổ 1, khu phố 8, phường L, thành phố B, tỉnh Đ, phòng PC 04 Công an tỉnh Đ phối hợp với Công an phường L, thành phố B, tỉ nh Đ kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang Lê Chí N có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 0,5692 gam, loại Methamphetamine.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Lê Chí N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo là người có có đầy đủ khả năng nhận thức pháp luật. Biết hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện là thể hiện sự coi thường và bất chấp pháp luật. Do vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiên nhằm cải tạo giáo dục bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có

[7] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

Đối với đối tượng tên D bán ma túy cho Lê Chí N, Cơ quan Cảnh sát Công an thành phố B tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[9] Về xử lý vật chứng:

-Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu giữ sau giám định và một dung cụ sử dụng ma túy đá;

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23 tháng 9 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

Trả lại một điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh có số IEEMI 1: 861428051179597, số IEEMI 2: 861428051179589 và một chứng minh nhân dân cho Lê Chí N do không liên quan đến hành vi phạm tội.

[10] Về án phí: Bị cáo N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Chí N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Lê Chí N 01 (một) năm (02) hai tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/5/2022.

Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

-Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu giữ sau giám định và một dung cụ sử dụng ma túy đá;

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23 tháng 9 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

Trả lại một điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh có số IEEMI 1:

861428051179597, số IEEMI 2: 861428051179589 và một chứng minh nhân dân cho Lê Chí N do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lê Chí N phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Bị cáo Lê Chí N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

101
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 464/2022/HS-ST

Số hiệu:464/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về