Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 386/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 386/2020/HS-ST NGÀY 27/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 27 tháng 7 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 329/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 381/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2020 đối với:

Bị cáo Chu Đình T; Sinh ngày 20 tháng 10 năm 1990, tại tỉnh Thanh Hóa; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký thường trú: Tổ 8, khu phố A, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở hiện nay: Tổ 8, khu phố A, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 07/12; Nghề nghiệp: Không; Họ tên cha: Chu Đình M, sinh năm 1966 (còn sống); Họ tên mẹ: Lê Thị H, sinh năm 1967(còn sống); Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án:

- Ngày 07/6/2011, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại khoản 1 Điều 138 và khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (bản án số 130/2011/HSPT). T chưa chấp hành xong bản án (chưa nộp án phí và tiền thu lợi bất chính).

- Ngày 29/5/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 2 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (bản án số 294/2014/HSST). T chưa chấp hành xong bản án (chưa nộp hết án phí và bồi thường dân sự).

Tiền sự: không.

Bị bắt tạm giữ ngày 10/4/2020, chuyển tạm giam theo Lệnh số 453 ngày 18/4/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Chu Đình T là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 17 giờ ngày 09/4/2020, T đi đến trước cây xăng Tín Ngh a thuộc khu phố A, phường L, thành phố B mua 03 tép Heroin (đựng trong đoạn ống hút bằng nhựa hàn kín hai đầu) của 01 nam thanh niên (Không r lai lịch) với giá 250.000đ (Hai trăm năm mươi nghìn đồng) để sử dụng. Khoảng 20 giờ cùng ngày, T cất giấu 03 tép Heroin vào trong túi quần đang mặc và đi đến thuê phòng 101 tại nhà nghỉ “Nâu” ở số 49/C1, khu phố A, phường L, thành phố B để sử dụng. Sau khi vào phòng 101, T lấy 03 gói Heroin ra đặt trên đầu giường ngủ (phía bên trái) để chuẩn bị sử dụng thì Công an phường L, thành phố B kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang, chuyển giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa xử lý.

Vật chứng thu giữ: 03 đoạn ống hút chứa chất bột màu trắng đ được niêm phong có chữ ký của Chu Đình T và hình dấu của Công an phường Long Bình Tân, thành phố Biên Hòa.

Tại Kết luận giám định số 702/KLGĐ-PC09 ngày 16/4/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: M u tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,1097gam, loại: Heroin (Heroine).

2. Truy tố:

Tại Cáo trạng số: 344/CT-VKSBH-HS ngày 16/6/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đ truy tố bị cáo Chu Đình T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

Áp dụng điểm o khoản 2, Điều 249 và điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Chu Đình T từ 05 (năm) năm tù đến 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù.

Bị cáo T có mặt không có ý kiến tranh luận đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

3. Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã mô tả, nhận thức được hành vi sai trái của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản hỏi cung bị can, kết luận giám định, biên bản lấy lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đ được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào lúc 20 giờ ngày 09/4/2020, tại phòng 101 nhà nghỉ “Nâu” ở số 49/C1, khu phố A, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Chu Đình T có hành vi tàng trữ trái phép 0,1097gam ma túy, loại: Heroin thì bị Công an phường L, thành phố B kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Chu Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản cáo trạng số 344/CT-VKSBH-HS ngày 16/6/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, góp phần làm gia tăng các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng. Bị cáo nhận thức r được tác hại của ma túy nhưng v n tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, cần phải có mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để có tác dụng răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.

- Về nhân thân: Trước đó bị cáo T đ từng bị xét xử về tội danh “Trộm cắp tài sản”, “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Gia đình bị cáo có công với cách mạng (ông nội là Chu Đình M được nhà nước tặng huân chương kháng chiến hạng nhì, ông ngoại là Lê Văn H là liệt sĩ). Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, vai trò, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo T để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau khi giám định được đựng trong phong bì có đóng dấu niêm phong số 702/KLGĐ-PC09 ngày 16/4/2020 của Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

[4] Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Chu Đình T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Các vấn đề khác có liên quan đến vụ án:

Đối với nam thanh niên (không r lai lịch) có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Chu Đình T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau.

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên, bị cáo tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị mức hình phạt là phù hợp quan điểm Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo tại phiên tòa được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

- Tuyên bố bị cáo Chu Đình T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Chu Đình T 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính ngày 10/4/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau khi giám định được đựng trong phong bì có đóng dấu niêm phong số 702/KLGĐ-PC09 ngày 16/4/2020 của Phòng k thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai. Vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 02 tháng 7 năm 2020.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Chu Đình T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Bị cáo Chu Đình T được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

106
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 386/2020/HS-ST

Số hiệu:386/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về