Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 385/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 385/2020/HS-ST NGÀY 27/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 27 tháng 7 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 342/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 6 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 382/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2020 đối với:

Bị cáo Đỗ Đức T; Sinh ngày 03 tháng 8 năm 1993, tại tỉnh Đồng Nai; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký thường trú: 94Z/5, khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở hiện nay: 94Z/5, khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên Chúa; Trình độ học vấn: Lớp 06/12; Nghề nghiệp: Không; Họ tên cha: Đỗ Đức Th, sinh năm 1959 (đã chết); Họ tên mẹ: Võ Thị Th, sinh năm 1966 (còn sống); Gia đình có 07 anh em, bị cáo là con thứ tư; Bị cáo chưa có vợ con. Tiền án: không; Tiền sự: Ngày 27/6/2018, bị cáo bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quyết định số 51/QĐ-TA của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, thời gian chấp hành tại cơ sở cai nghiện bắt buộc là 01 năm 06 tháng. Đến ngày 29/11/2019, Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai ban hành quyết định số 616/QĐ-TA, miễn chấp hành thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại đối với bị cáo.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 18/3/2020, chuyển tạm giam theo Lệnh số 364 ngày 26/3/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa.

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Đỗ Đức T là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 00 giờ 45 phút ngày 18/3/2020, T điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Taurus biển số 60Y3-X đến khu vực nhà sách “Nguyễn Văn C” thuộc tổ 2, khu phố A, phường T, thành phố Biên Hòa gặp người thanh niên tên Đ (không rõ lai lịch) mua 01 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), mục đích để sử dụng. Đến khoảng 00 giờ 55 phút cùng ngày, khi T đang cầm gói ma túy vừa mua được trên tay trái đứng trước nhà sách tại địa chỉ trên thì bị tổ tuần tra Công an phường T phát hiện. Nhìn thấy lực lượng Công an, T thả gói ma túy xuống mặt đường ngay chỗ T đang đứng thì bị tổ tuần tra phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật, chuyển giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa xử lý.

Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) gói nylon được hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng đã được niêm phong, có chữ ký của Đỗ Đức T và hình dấu mộc tròn của Công an phường Tân Hiệp.

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Taurus biển số 60Y3-X thuộc quyền sở hữu của bà Võ Thị Th (mẹ ruột Đỗ Đức T). Xét thấy bà Th không biết việc T sử dụng xe đến địa điểm mua ma túy để sử dụng nên Cơ quan điều tra đã trả xe cho bà Võ Thị Th.

- 01 cây xiên gạo bằng kim loại dài 30cm không liên quan đến vụ án.

Tại Kết luận giám định số 548/KLGĐ-PC09 ngày 23/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,2117 gam, loại: Methamphetamine”.

2. Truy tố:

Tại Cáo trạng số: 351/CT-VKSBH-HS ngày 18/6/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Đỗ Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

Áp dụng điểm c khoản 1, Điều 249 và điểm s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Đỗ Đức T từ 16 (mười sáu) đến 20 (hai mươi) tháng tù.

Bị cáo T có mặt không có ý kiến tranh luận đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

3. Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã mô tả, nhận thức được hành vi sai trái của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản hỏi cung bị can, kết luận giám định, biên bản lấy lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào lúc 00 giờ 55 phút ngày 18/3/2020, tại khu vực trước nhà sách “Nguyễn Văn C” thuộc tổ 2, khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Đỗ Đức T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2117 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị Công an phường T phát hiện, bắt quả tang.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Đỗ Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản cáo trạng số 351/CT-VKSBH-HS ngày 18/6/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, góp phần làm gia tăng các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng. Bị cáo nhận thức rõ được tác hại của ma túy nhưng vẫn tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, cần phải có mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để có tác dụng răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.

- Về nhân thân: Trước đó bị cáo T bị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, vai trò, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo T để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau khi giám định được đựng trong phong bì có đóng dấu niêm phong số 548/KLGĐ-PC09 ngày 23/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

- Tịch thu tiêu hủy 01 cây xiên gạo bằng kim loại dài 30cm do không liên quan đến vụ án, bị cáo T không có nhu cầu sử dụng.

[4] Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Đỗ Đức T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;

[5] Các vấn đề khác có liên quan đến vụ án:

Đi với đối tượng tên Đen chưa rõ lai lịch đã bán ma túy cho T, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau.

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên, bị cáo tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị mức hình phạt là phù hợp quan điểm Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo tại phiên tòa được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017):

- Tuyên bố bị cáo Đỗ Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Đỗ Đức T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính ngày 18/3/2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Tch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau khi giám định được đựng trong phong bì có đóng dấu niêm phong số 548/KLGĐ-PC09 ngày 23/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 cây xiên gạo bằng kim loại dài 30cm. Vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23 tháng 6 năm 2020.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Đỗ Đức T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Bị cáo Đỗ Đức T được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 385/2020/HS-ST

Số hiệu:385/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về