Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 36/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 36/2023/HS-ST NGÀY 31/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 37/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Huyền T, sinh năm 2000, tại huyện C, tỉnh An Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp L, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: mua bán; trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S và bà Châu Thị Ngọc T1; có chồng là Nguyễn Ngọc T2 và 02 con sinh năm 2016, 2019;

Tiền án, tiền sự: chưa;

Bị tạm giữ từ ngày 29/5/2023 đến ngày 07/6/2023 chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1969; nơi cư trú: ấp L, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; có mặt.

- Ông Phạm Văn T3, sinh năm 1975; nơi cư trú: tổ C, ấp M, xã V, thành phố C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

Người làm chứng:

- Bà Chế Thị H, sinh năm 1967; vắng mặt.

- Ông Nguyễn Văn T4, sinh năm 1968; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 29/5/2023, nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, Công an xã K phối hợp với Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an huyện C, bắt quả tang Nguyễn Thị Huyền T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại khu vực ấp P, xã K, thu giữ dưới mặt đường tại vị trí Trân đứng 01 bịch nilon hàn kín, có hình mặt cười màu đỏ, bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, được quấn băng keo màu đen, T khai nhận là ma túy đá, được người tên M (chưa rõ họ, địa chỉ) giới thiệu mua của người tên T5 (chưa rõ họ, địa chỉ) giá 200.000 đồng để sử dụng, nên lực lượng Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

- Vật chứng thu giữ: 01 bịch nilon trong suốt được hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu trắng, có lắp thẻ sim mạng Viettle của T và 01 xe mô tô nhãn hiệu FUSKI, màu sơn đỏ - đen của Nguyễn Văn S, biển số 67N7-2892.

- Kết luận giám định số 97/KL-KTHS(MT-GT) ngày 06/6/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh A: Mẫu gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 1,1171 gam.

Ngày 07/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C khởi tố Nguyễn Thị Huyền T để điều tra xử lý.

Tại Cáo trạng số 35/CT-VKSCM ngày 30 tháng 6 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Huyền T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử xử phạt nhẹ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Văn S, cung cấp lời khai như đã khai trong giai đoạn điều tra.

- Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Pháp luật nghiêm cấm mọi hoạt động sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép ma túy dưới mọi hình thức. Nguyên nhân phạm tội do bị cáo nghiện nên tàng trữ ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Cho nên, đề nghị xử phạt nghiêm bị cáo, để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự. Cho nên, đề nghị xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 6 (sáu) tháng tù.

Về hình phạt bổ sung, do bị cáo bị nghiện, thu nhập không ổn định nên đề nghị không áp dụng.

Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu, tiêu hủy lượng ma túy bị thu giữ; tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu trắng, có lắp thẻ sim mạng V; giao trả lại cho ông Nguyễn Văn S 01 xe mô tô nhãn hiệu FUSKI, màu sơn đỏ - đen, biển số 67N7-2892.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, Kiểm sát viên được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo, bị cáo Nguyễn Thị Huyền T khai nhận, khoảng tháng 5/2023, bị cáo bắt đầu sử dụng ma túy, nguồn ma túy do người bạn nghiện tên M (chưa rõ họ, địa chỉ) giới thiệu mua của người tên T5 (chưa rõ họ, địa chỉ), để sử dụng. Ngày 29/5/2023, bị cáo điện thoại cho T5 đặt mua ma túy, giá 200.000 đồng. Sau khi nhận ma túy, bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 67N7- 2892 chạy về hướng xã K, huyện C tìm nơi sử dụng thì bị Công an bắt quả tang, thu giữ của bị cáo 01 bịch ma túy đá và các vật chứng khác có liên quan.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo ở giai đoạn điều tra; phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác gồm: biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 29/5/2023 do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C lập;

biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 29/5/2023 cùng sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường kèm theo do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C lập; lời khai của bà Chế Thị H, ông Nguyễn Văn T4 về việc chứng kiến lực lượng Công an bắt quả tang bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ của bị cáo 01 bịch nilon được hàn kín, chứa chất tinh thể màu trắng dưới mặt đường tại vị trí bị cáo đứng, cạnh xe mô tô biển số 67N7-2892 ở ấp P, xã K. Khi đó, bị cáo khai, chất tinh thể màu trắng trong 01 bịch nilon là ma túy đá.

Bên cạnh đó, lời khai của bị cáo còn phù hợp với vật chứng bị thu giữ khi bắt quả tang gồm: 01 bịch nilon trong suốt được hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu trắng, có lắp thẻ sim mạng Viettle của bị cáo và 01 xe mô tô nhãn hiệu FUSKI, màu sơn đỏ - đen của Nguyễn Văn S, biển số 67N7-2892.

Theo Kết luận giám định số 97/KL-KTHS(MT-GT) ngày 06/6/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh A chất tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch nilon thu giữ của bị cáo được giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 1,1171 gam.

Từ các căn cứ trên có cơ sở xác định, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 1,1171 gam.

Bị cáo là người thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước nhưng vẫn cố ý thực hiện thông qua việc cất giấu ma túy và sự thừa nhận của bị cáo tại phiên tòa. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân, ma tuý là chất gây nghiện. Một khi đã sử dụng thì khó có thể từ bỏ được. Chúng được xem nguyên nhân làm suy giảm sức khỏe, suy thoái nòi giống. Tệ nạn ma tuý còn được xem là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội, tội phạm, ảnh hưởng nghiêm trọng trật tự, an toàn xã hội.

Bị cáo là người thành niên, đang ở tuổi lao động nhưng lại lao vào con đường nghiện ngập. Để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng lớn đến công tác đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma túy mà Nhà nước, xã hội đang ra sức thực hiện. Do đó, cần có hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như trước phiên toà hôm nay, bị cáo đã tỏ rõ thái độ thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bên cạnh đó, về nhân thân, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy, cần xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[5] Về hình phạt bổ sung, xét bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm của người liên quan:

Bị cáo khai, lượng ma túy bị thu giữ được bị cáo đặt mua của người tên T5 thông qua sự giới thiệu của người tên M. Do chưa xác định được họ, địa chỉ người tên T5 và người tên M nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C tiếp tục làm rõ, xử lý sau là phù hợp quy định pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Lượng ma túy bị thu giữ khi bắt quả tang bị cáo là vật cấm lưu hành; bịch nilon chứa ma túy có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội và không còn giá trị sử dụng. Vì vậy, tịch thu, tiêu hủy lượng ma túy và bịch nilon này theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu trắng, có lắp thẻ sim mạng V, bị cáo sử dụng điện thoại này làm phương tiện phạm tội. Vì vậy, tịch thu, nộp ngân sách nhà nước điện thoại di động hiệu OPPO, màu trắng, có lắp thẻ sim mạng Viettle kèm theo bị thu giữ theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu FUSKI, màu sơn đỏ - đen, biển số 67N7- 2892, theo Phiếu trả lời xác minh phương tiện giao thông cơ giới đường bộ ngày 29/5/2023 của Công an xã K, xe mô tô biển số 67N7-2892 do ông Phan Văn T6 đứng tên chủ sở hữu. Mặc dù, không ghi được lời khai của ông T6 nhưng theo biên bản xác minh ngày 20/6/2023 đối với đại diện Công an xã M, huyện C, tỉnh An Giang và biên bản xác minh ngày 22/6/2023 đối với đại diện Công an xã V, thành phố C thì ông T6 đã chuyển đến xã V, thành phố C; từ trước đến nay, tại địa bàn xã V không xảy ra việc chiếm đoạt xe mô tô biển số 67N7-2892. Theo biên bản xác minh ngày 23/6/2023, đại diện Ban ấp L, xã K, huyện C cho biết xe mô tô biển số 67N7-2892 được ông Nguyễn Văn S mua khoảng năm 2017 và sử dụng làm phương tiện đi lại cho đến nay. Bên cạnh đó, ông Nguyễn Văn S khai, ông S mua xe mô tô biển số 67N7-2892 của người lạ vào năm 2017, chưa sang tên. Cho nên, có cơ sở xác định, ông S là người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp xe mô tô biển số 67N7-2892.

Ông S và bị cáo cùng xác định ông S không biết viêc bị cáo mượn xe mô tô đi mua ma túy. Do ông S không có lỗi trong việc bị cáo sử dụng xe mô tô biển số 67N7-2892 làm phương tiện mua ma túy nên giao trả lại xe mô tô biển số 67N7- 2892 cho ông S theo khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Huyền T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy;

Xử phạt: Nguyễn Thị Huyền T 01 (một) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị tạm giữ, ngày 29/5/2023 (ngày hai mươi chín, tháng năm, năm hai nghìn không trăm hai mươi ba).

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ vào các điểm a, c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì màu trắng được niêm phong (Vụ số:

97/KL-KTHS(MT-GT) ngày 06 tháng 6 năm 2023) có in hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng K, Đặng Hữu T7. Bên trong có mẫu vật còn lại sau khi đã giám định, khối lượng 0,0491g (không phẩy, không bốn chín một gam).

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, vỏ bên ngoài màu trắng, có lắp thẻ sim mạng Viettle (đã qua sử dụng).

- Giao trả cho ông Nguyễn Văn S 01 (một) xe mô tô biển số 67N7-2892, màu sơn đỏ - đen, số máy 20010828, số khung 010828 (đã qua sử dụng).

(Theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 24/7/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Thị Huyền T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, ông Nguyễn Văn S có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của ông Phạm Văn T3 là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 36/2023/HS-ST

Số hiệu:36/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về