Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 31/2022/HS-ST NGÀY 30/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 30/2022/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Phạm Văn T, sinh năm 1997 tại huyện N, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: thôn H, xã G, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn C và bà Nguyễn Thị N; có vợ là Mai Thị H và 01 con; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: ngày 18/11/2019 bị Công an huyện N, tỉnh Thanh Hóa xử phạt hành chính 2.500.000 đồng về hành vi Cố ý gây thương tích, đã nộp tiền phạt ngày 12/11/2019; ngày 14/11/2019 bị UBND huyện N, tỉnh Thanh Hóa xử phạt hành chính tổng cộng 27.500.000 đồng về các hành vi: Tàng trữ trái phép pháo nổ, Tàng trữ trái phép công cụ hỗ trợ, vũ khí thô sơ mà không có giấy phép và Tàng trữ trái phép vũ khí thể thao, đã nộp tiền phạt ngày 06/12/2019; bị tạm giữ ngày 29/4/2022, tạm giam ngày 08/5/2022; có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người chứng kiến:

1/ Anh Mai Văn T; vắng mặt;

2/ Anh Mai Xuân Đ; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 11 giờ 20 phút ngày 29/4/2022, Công an huyện N nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc nghi vấn tại nhà hàng N, thôn K, xã Y, huyện N, tỉnh Thanh Hóa có đối tượng mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngay sau đó, Công an huyện N đã phân công lực lượng phối hợp với Công an xã Y đến nhà hàng N để kiểm tra xác minh. Đến 11 giờ 25 phút cùng ngày, tại sảnh tầng 1 của nhà hàng N, lực lượng Công an đã phát hiện Phạm Văn T đang cầm 01 chiếc khẩu trang y tế vo tròn, trong chiếc khẩu trang có 04(bốn) gói giấy màu trắng bên trong đều có chất ma túy, T cất giấu để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ. Ngoài chất ma túy, Cơ quan CSĐT còn thu giữ của Phạm Văn T 01 điện thoại di động Sam Sung màu đen, gắn sim số 0985.436.678; 01 điện thoại di động Nokia màu nâu và 01 xe ô tô ATTRAGE biển kiểm soát (BKS) 30E- 859.81.

Về nguồn gốc ma túy: sau khi bị bắt quả tang, Phạm Văn T khai số ma túy bị thu giữ do T mua từ trước, không rõ người bán và địa điểm mua bán ở đâu, T đem theo để sử dụng. Sau đó, T thay đổi lời khai, cho rằng nguồn gốc ma túy do T liên hệ mua của Phan Ngọc Á, sinh năm 1985, trú tại khu phố N, thị trấn P, huyện K, tỉnh Ninh Bình. T và Á hẹn gặp nhau mua bán ma túy tại phòng 5 tầng 2 nhà hàng N vào trưa ngày 29/4/2022, sau khi mua ma túy, T đi xuống sảnh tầng 1 thì bị bắt quả tang. Cơ quan Cảnh sát điều tra (CSĐT) đã xác minh, làm việc với Phan Ngọc Á, cho đối chất với Phạm Văn T, tiến hành thu thập video tại nhà hàng N, ghi lời khai những người có mặt tại nhà hàng N trưa ngày 29/4/2022 để làm rõ lời khai của Phạm Văn T. Phan Ngọc Á thừa nhận việc quen biết và có liên hệ với T đến nhà hàng N như lời khai của T. Tuy nhiên, Á trình bày không có sự việc mua bán trái phép chất ma túy với T. Ngoài lời khai của T, không có chứng cứ nào khác chứng minh việc mua bán ma túy giữa Á và T nên không đủ căn cứ kết luận về hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Tại kết luận giám định số 1570/KL-KTHS, ngày 04/5/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất màu trắng ngà dạng cục vụn bên trong 04(bốn) gói giấy màu trắng của phong bì niêm phong mặt trước có ghi dòng chữ “Quả tang” gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,889g (không phẩy tám tám chín gam), loại: Heroine.

Tại bản cáo trạng số 34/CT-VKSNS ngày 08/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Phạm Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn giữ nguyên quan điểm kết tội đối với bị cáo theo tội danh, điều khoản đã nêu trong cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm đối với nội dung vụ án. Sau khi phân tích, đánh giá toàn diện vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt Phạm Văn T từ 15(mười lăm) tháng đến 18(mười tám) tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249 BLHS; áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS, khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; trả lại cho Phạm Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung màu đen, gắn sim số 0985.436.678.

Bị cáo Phạm Văn T trình bày nguồn gốc số ma túy là do bị cáo mua của Phan Ngọc Á, nhưng không có căn cứ kết luận. Bị cáo thừa nhận và khai báo toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình trong vụ án đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, không có ý kiến gì đối với các văn bản tố tụng hình sự, cũng như lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người tham gia tố tụng khác trong vụ án. Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, chỉ đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về tội danh: Lời khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai người chứng kiến và các văn bản tố tụng hình sự khác, như: biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản tạm giữ tài sản, đồ vật, tài liệu; biên bản khám xét; kết luận giám định… cũng như các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập theo trình tự luật định, phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án.

Như vậy đã có đủ cơ sở khẳng định: Trưa ngày 29/4/2022, Phạm Văn T đem theo 0,889 gam ma túy, loại Heroine với mục đích để sử dụng. Khi T đang ở nhà hàng N, thôn K, xã Y, huyện N, tỉnh Thanh Hóa thì bị lực lượng Công an huyện N bắt quả tang, thu giữ tang vật. Về nguồn gốc ma túy, T khai mua của Phan Ngọc Á, trú tại khu phố N, thị trấn P, huyện K, tỉnh Ninh Bình. Cơ quan CSĐT đã thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh nhưng không đủ chứng cứ kết luận. Hành vi nêu trên của Phạm Văn T đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Quan điểm buộc tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa đối với bị cáo theo tội danh và khung hình phạt như bản cáo trạng là hoàn toàn thỏa đáng, đảm bảo căn cứ pháp luật.

[2] Về hình phạt: Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Đây là chất gây nghiện có tác hại rất lớn, ảnh hưởng xấu tới sức khỏe con người, là một trong những nguyên nhân chính gây ra các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội ở địa phương, gây tâm lý hoang mang, bất bình cho quần chúng nhân dân.

Xét nhân thân: Bị cáo tuy tuổi đời còn trẻ, nhưng là người nghiện ma túy. Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 08/11/2019 bị Công an huyện N xử phạt hành chính 2.500.000 đồng về hành vi Cố ý gây thương tích; ngày 14/11/2019 bị UBND huyện N xử phạt vi phạm hành chính 27.500.000 đồng về các hành vi Tàng trữ trái phép pháo nổ, Tàng trữ trái phép công cụ hỗ trợ, vũ khí thô sơ mà không có giấy phép và Tàng trữ trái phép vũ khí thể thao. Tuy nhiên bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình.

Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (TNHS): Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng TNHS nào và được hưởng các tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 BLHS là thành khẩn khai báo, có ông nội Phạm Văn T được tặng thưởng Huân chương kháng chiến.

Đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét yếu tố nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ TNHS như đã phân tích, HĐXX thấy cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt và phòng ngừa tội phạm chung trong cộng đồng.

Về hình phạt bổ sung: Sau khi xem xét, cân nhắc, HĐXX thấy không cần áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo, vì bị cáo là người lao động tự do, thu nhập không ổn định.

[3] Về vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ được còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung, màu đen, đã qua sử dụng của Phạm Văn T, T trình bày là dùng để liên lạc mua ma túy, tuy nhiên không có căn cứ kết luận về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, nên cần trả lại cho Phạm Văn T do không liên quan đến hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu nâu của Phạm Văn T không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn đã trả lại cho T (bố của T là ông Phạm Văn C nhận thay) là phù hợp.

Đối với chiếc ô tô BKS 30E-859.81 thu giữ của T là do anh Mai Văn L, sinh năm 1985, trú tại thôn N1, xã G, huyện N, tỉnh Thanh Hóa gửi T để vay tiền từ năm 2018. Chiếc xe này do Công ty TNHH đầu tư xuất nhập khẩu P, địa chỉ tại phường K, quận T, thành phố Hà Nội đứng tên đăng ký. Giữa anh L và Công ty P có hợp đồng về việc quản lý, sử dụng chiếc xe này. Tuy nhiên, quá trình điều tra, anh L không có mặt tại địa phương. Do chưa làm rõ được quyền sở hữu, quản lý, sử dụng nên Cơ quan CSĐT tiếp tục tạm giữ để xác minh làm rõ và xử lý khi có đủ căn cứ, là phù hợp.

[4] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong các giai đoạn tố tụng đã thực hiện và ban hành đều hợp pháp, tuân thủ các nguyên tắc tố tụng cũng như đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm được giao theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS).

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS:

- Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn T 15(mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 29/4/2022.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01(một) phong bì niêm phong do Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký, ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đ, Trần Thị Thúy H, Nguyễn Văn M và các hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, bên trong có chứa toàn bộ bao gói mở niêm phong và 0,852 gam chất màu trắng (ma túy) dạng cục vụn là mẫu vật còn lại sau giám định; trả lại cho Phạm Văn T 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung, màu đen, đã qua sử dụng (theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 09/8/2022 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: bị cáo Phạm Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 BLTTHS: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2022/HS-ST

Số hiệu:31/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về