Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHÚ QUỐC - TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 29/2022/HS-ST NGÀY 12/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 12 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phú Quốc đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2022/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đặng Thị Mộng T, sinh năm 1996 Giới tính: Nữ Nơi sinh: Huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang Nơi ĐKTT: Ấp Nguyễn Văn R, xã B, huyện G, tỉnh Kiên Giang Chỗ ở: Ấp Suối Đá, xã D, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang Nghề nghiệp: Không Trình độ học vấn: 11/12 Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Đặng Văn N (sống) và bà Nguyễn Thị Thanh H (sống) Chồng: Trần Tấn P, sinh năm 1985 (chưa đăng ký kết hôn) Con: 02 người, (lớn sinh năm 2020; nhỏ sinh năm 2021) Tiền án, tiền sự: chưa.

Về nhân thân: Ngày 06/7/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Ngày 23/12/2018, chấp hành xong hình phạt tù, đã được xóa án tích.

Bị cáo thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú và có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 28/12/2021, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Đặng Thị Mộng T gọi điện thoại cho người đàn ông tên P (chưa rõ nhân thân) và thuê xe Honda ôm đến khu vực nghĩa trang Liệt sĩ thuộc khu phố 10, phường Dương Đông, thành phố Phú Quốc gặp P mua 01 bịch ma tuý, với giá 500.000 đồng. Sau khi mua được ma tuý, T đem về phòng trọ số 27 nhà trọ S, thuộc ấp Suối Đá, xã D, thành phố Phú Quốc nơi T thuê ở, T lấy một ít ra sử dụng, số ma tuý còn lại T chia thành 02 bịch nhỏ cất giấu vào hộp sữa để trong phòng. Đến khoảng 20 giờ 40 phút ngày 30/12/2022 Công an thành phố Phú Quốc kiểm tra phòng trọ T đang thuê phát hiện T đang tàng trữ trái phép chất ma túy nên lập biên bản bắt quả tang. Ngày 10/01/2022, Đặng Thị Mộng T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phú Quốc khởi tố, cấm đi khỏi nơi cư trú để điều tra.

* Thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật:

- 01 bịch nylon màu trắng, kích thước 1,4cm x 3,7cm, được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa các loại tinh thể rắn màu trắng không đồng nhất, đã được niêm phong;

- 01 bịch nylon màu trắng, kích thước 03cm x 3,7cm, được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng không đồng nhất, đã được niêm phong;

- 01 diện thoại di động hiệu Samsung, màu vàng, số IMEI 1: 354737080803611, số IMEI 2: 354738080803619, bị vỡ mặt sau, máy đã qua sử dụng;

* Tại bản kết luận giám định số: 1205/KL-KTHS ngày 07/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang, kết luận: Các hạt tinh thể rắn, màu trắng, không đồng nhất chứa trong 02 bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,5852 gam.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định số 1205/KL - KTHS ngày 07/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang.

Tại bản cáo trạng số: 34/CT-VKSPQ ngày 17 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc truy tố bị cáo Đặng Thị Mộng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đặng Thị Mộng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt Đặng Thị Mộng T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy các hạt tinh thể rắn, màu trắng, còn lại sau giám định có khối lượng là 0,5384 gam và bao gói đựng mẫu có niêm phong trong một phong bì có ký hiệu vụ số 1205/2022;

+ Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, màu vàng, số IMEI 1: 354737080803611, số IMEI 2:

354738080803619, bị vỡ mặt sau, máy đã qua sử dụng;

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì đối với bản cáo trạng và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã công bố và không tranh luận gì đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ mức án để về chăm sóc 02 con còn nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phú Quốc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Đặng Thị Mộng T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc truy tố.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, tang vật thu giữ trong vụ án, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận bị cáo dùng chiếc điện thoại đã bị tịch thu gọi cho người đàn ông tên P để mua ma tuý về sử dụng.

Từ đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định, do có nhu cầu sử dụng ma tuý nên bị cáo đã đi xe honda ôm tới khu vực Nghĩa trang Liệt sĩ Phú Quốc mua 01 bịch ma tuý của người tên P (chưa rõ nhân thân) để sử dụng, T mang về sử dụng được một ít, còn lại chia thành 02 bịch nhỏ giấu vào hộp sữa để dành sử dụng thì bị lực lượng công an kiểm tra hành chính bắt quả tang T đang tàng trữ trái phép chất ma tuý. Qua giám định đã kết luận khối lượng ma tuý Tiền tàng trữ là 0,5852 gam ma túy loại Methamphetamine. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật và khung hình phạt có mức án từ 01 năm đến 05 năm tù.

[3]. Về tính chất mức độ hành vi phạm tội: Vào thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy. Nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo đã bất chấp pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo nhận thức được ma túy là chất gây nghiện, gây ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng con người, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự tại địa phương, là nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn xã hội và các loại tội phạm nguy hiểm khác. Mặc dù bị cáo đã từng bị kết án về tội mua bán trái phép chất ma tuý, nhưng bị cáo vẫn mua ma tuý về cất giấu để sử dụng, cho thấy bị cáo chưa biết ăn năn, hối cải. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, nên cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành người tốt, đồng thời phòng ngừa chung cho xã hội đối với loại tội phạm này, tuy nhiên cũng cần xem xét đến hoàn cảnh của bị cáo hiện nay đang nuôi 02 con còn nhỏ để giảm nhẹ mức án.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tuy nhiên về nhân thân bị cáo đã từng bị Toà án nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” đã được xoá án tích, nhưng bị cáo chưa thấy đây là bài học để tu dưỡng bản thân mà vẫn phạm tội, cho thấy bị cáo chưa ăn năn, hối cải.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa và quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5]. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy các hạt tinh thể rắn, màu trắng, còn lại sau giám định có khối lượng là 0,5384 gam và bao gói đựng mẫu có niêm phong trong một phong bì có ký hiệu vụ số 1205/2022;

+ Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, màu vàng, số IMEI 1: 354737080803611, số IMEI 2: 354738080803619, bị vỡ mặt sau, máy đã qua sử dụng;

[6]. Đối với người tên P, Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục làm rõ, khi nào bắt được xử lý sau.

[7]. Về quan điểm của Viện kiểm sát: Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc đề nghị về tội danh, mức hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, biện pháp tư pháp đối với bị cáo là có căn cứ, Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ pháp luật: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố : Bị cáo Đặng Thị Mộng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt

Đặng Thị Mộng T: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

2. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy các hạt tinh thể rắn, màu trắng, còn lại sau giám định có khối lượng là 0,5384 gam và bao gói đựng mẫu có niêm phong trong một phong bì có ký hiệu vụ số 1205/2022;

+ Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, màu vàng, số IMEI 1: 354737080803611, số IMEI 2: 354738080803619, bị vỡ mặt sau, máy đã qua sử dụng;

(Tang vật trên đã được chuyển giao cho Chi cục thi hành án Dân sự thành phố Phú Quốc theo quyết định chuyển giao vật chứng số: 34/QĐ-VKSPQ-HS ngày 17/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phú Quốc).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

96
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2022/HS-ST

Số hiệu:29/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phú Quốc - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về