Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 25/2023/HS-ST NGÀY 16/02/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 02 năm 2023 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:21/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 02 năm 2023 đối với các bị cáo:

1/- Phạm Thị T, sinh năm: 1997, tại: Thanh Hóa; Hộ khẩu thường trú: thôn Q, xã Quang L, Hện H, tỉnh Thanh Hóa; Chỗ ở: số A đường Phạm Văn Chiêu, Phường X, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc:Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T1 (đã chết) và bà Vũ Thị Đ, sinh năm 1960; Chưa có chồng nhưng có 01 con sinh năm 2016; tiền sự: Không; tiền án: Không; Bị bắt tạm giam ngày: 21/6/2022; (Có mặt).

2/- Phạm Minh T2, sinh năm: 1996, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: thôn X, xã P, Hện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk; Chỗ ở: số A đường Phạm Văn Chiêu, Phường X, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc:Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Đ1, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị T3, sinh năm 1961; Chưa có vợ; tiền sự: Không; tiền án: Không; Bị bắt tạm giam ngày: 21/6/2022; (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 01/2022, Phạm Thị T thuê phòng trọ không số, nhà số A đường Phạm Văn Chiêu, phường X, quận Gò Vấp ở cùng với Huỳnh Lê Hiếu T4 (không rõ nhân thân, lai lịch) là bạn trai của T. T4 có cất giấu 02 (hai) gói nylon có chứa chất bột màu trắng và 01 (một) cân tiểu ly vào bên trong một cái vỉ tròn bằng nhựa màu đen, được đậy lại bằng nắp nhựa màu đỏ, để trong phòng T đang thuê ở. Sau đó, T4 bị cơ quan công an bắt về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (T không rõ đơn vị nào bắt), T vẫn giữ số ma túy này cho đến nay nhưng không sử dụng. Đến đầu tháng 05/2022, thì Phạm Minh T2 đến ở trọ cùng với T, trong thời gian ở cùng nhau T có nói cho T2 biết số ma túy như đã khai trên và T mở nắp ra xem số ma túy này. Do T và T2 không sử dụng ma túy tổng hợp (Ketamine) mà chỉ sử dụng ma túy tổng hợp (hàng đá) nên cả hai không sử dụng đến số ma túy trên. Đến khoảng 16 giờ ngày 20/06/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy tổng hợp (hàng đá) nên T2 góp 500.000 đồng, T góp 600.000 đồng để hùn tiền mua ma túy cùng sử dụng chung. T gọi cho một người bạn quen biết qua mạng xã hội tên Vy (không rõ lai lịch,) bằng ứng dụng Zalo có tên là “Khánh V” để hỏi mua ma túy tổng hợp (hàng đá) với số tiền là 1.100.000 đồng thì V đồng ý bán. Khoảng 30 phút sau, có một nam thanh niên tên T5 (không rõ lai lịch) đến giao cho T một gói ma túy tổng hợp (hàng đá), T trả cho T5 số tiền là 1.100.000 đồng và nhận gói ma túy. Sau khi giao ma túy cho T xong thì T5 bỏ đi, sau khi mua được ma túy T để gói ma túy vừa mua được trên nắp thùng đựng nước đá trên sàn nhà. Đến 20 giờ cùng ngày T2 lấy một ít ma túy ra từ gói ma túy mà T vừa mua, bỏ vào nỏ thủy tinh rồi T và T2 cùng nhau sử dụng. Số ma túy còn lại, T2 để xuống sàn nhà rồi cùng T đi ngủ. Đến khoảng 08 giờ ngày 21/06/2022, T2 nhắn tin qua lại với Lê Chí N rồi rủ N đến phòng thuê của T và T2 để sử dụng ma túy. Nđồng ý, khoảng 30 phút sau N đi cùng với Nguyễn Hải H là bạn của N và cũng là bạn bè quen biết ngoài xã hội với T2 và T đến phòng. Khi H và N đến T2 lấy một ít ma túy từ trong gói ma túy còn thừa mà T và T2 mua hôm trước bỏ vào nỏ thủy tinh để ở giữa phòng, số ma túy còn lại T2 cất tại kệ trang điểm thứ 3 ở bên phải cửa phòng. Sau đó T2, T, H và N cùng sử dụng ma túy. Đến 09 giờ 20 cùng ngày, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy kết hợp với Công an phường 14 quận Gò Vấp kiểm tra phòng thì phát hiện ở giữa phòng có 01 bình nhựa có gắn nỏ thủy tinh và ống hút, tại kệ trang điểm thứ 3 ở bên phải cửa phòng (theo hướng từ ngoài cửa nhìn vào) có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy tổng hợp (hàng đá) và 02 (hai) gói nylon chứa chất bột màu trắng là ma túy tổng hợp (hàng khay) được cất giấu trong 01 vỉ tròn bằng nhựa màu đen được đậy lại bằng nắp nhựa màu đỏ để dưới sàn nhà. Tổ công tác đã Tiến hành thu giữ, niêm phong toàn bộ số tang vật trên, đưa H, Nguyện, T2 và T về trụ sở cơ quan Công an Tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Thị T và Phạm Minh T2 và thu giữ gồm:

- 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (ký hiệu mẫu m1), đã được niêm phong thành 01 gói, bên ngoài có chữ ký ghi tên Phạm Thị T và hình dấu của Công an Phường 14, quận Gò Vấp.

- 02 gói nylon chứa chất bột màu trắng được niêm phong thành một gói (ký hiệu mẫu m2), bên ngoài có chữ ký ghi tên Phạm Thị T và hình dấu Công an phường 14, quận Gò Vấp.

- 01 bình nhựa có gắn nỏ thủy tinh (là dụng cụ sử dụng ma túy).

- 01 điện thoại di động hiệu NOKIA sim số: 09X6810( Điện thoại của Phạm Minh T2).

- 01 điện thoại di động hiệu VIVO sim số: 070764X(Điện thoại T dùng để liên lạc mua ma túy).

- 01 cân tiểu ly.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Phạm Thị T và Phạm Minh T2 đã khai thừa nhận hành vi phạm tội như nêu trên.

Qua xét nghiệm chất ma túy Lê Chí N và Nguyễn Hải H đều có kết quả dương tính với chất ma túy, phù hợp với lời khai của các đối tượng về việc có sử dụng chất ma túy.Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Gò Vấp đã bàn giao Nguyễn Hải H và Lê Chí N cho Công an phường 14 quận Gò Vấp để Tiến hành xử lý vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Đối với đối tượng tên Huỳnh Lê Hiếu T4 là người đã cất giấu ma túy tại nhà số A đường Phạm Văn Chiêu, phường X, quận Gò Vấp, người phụ nữ tên V là người bán ma túy tổng hợp (hàng đá) cho T cùng người đàn ông tên T5 giao ma túy tổng hợp (hàng đá) cho T, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra sẽ tiếp tục áp dụng các biện pháp điều tra xác minh, khi nào xác định được lai lịch, có đủ tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội sẽ đề nghị xử lý sau theo quy định của pháp luật.

Căn cứ bản kết luận giám định số 3624/KL - KTHS, ngày 29/6/2022 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận 01 gói nylon chứa tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m1 cần giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 2.1264 gam loại Methaphetamine và 02 gói nylon chứa tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m2 cần giám định là ma túy ở thể rắn có khối lượng 2.6594 gam loại Ketamine.

Vật chứng vụ án:

- 01 gói nylon chứa chứa tinh thể rắn không màu khối lượng: 1,8496 gam, loại Methamphetamine được niêm phong bên ngoài có chữ kí của giám định viên và cán bộ điều tra sau khi giám định còn lại.

- 01 gói nylon chứa tinh thể rắn không màu khối lượng: 2,2245 gam, loại Ketamine được niêm phong bên ngoài có chữ kí của giám định viên và cán bộ điều tra sau khi giám định còn lại.

- 01 bình nhựa có gắn nỏ thủy tinh (là dụng cụ sử dụng ma túy).

- 01 điện thoại di động hiệu NOKIA 1280 sim số: 09X6810 (Điện thoại của Phạm Minh T2).

- 01 điện thoại di động hiệu VIVO sim số: 070764X(Điện thoại T dùng để liên lạc mua ma túy).

- 01 cân tiểu ly.

Tại bản cáo trạng số 24/CTr-VKS, ngày 11/01/2023 Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Phạm Thị T và Phạm Minh T2 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” điểm i khoản 1 Điều 249 và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 và điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Xử phạt bị cáo Phạm Thị T từ 03 năm đến 04 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, từ 07 năm đến 08 năm về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt 02 tội danh đề nghị xử phạt bị cáo từ 10 năm đến 12 năm tù.

- Xử phạt bị cáo Phạm Minh T2 từ 03 năm đến 04 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, từ 07 năm đến 08 năm về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt 02 tội danh đề nghị xử phạt bị cáo từ 10 năm đến 12 năm tù.

- Miễn phạt bổ sung cho các bị cáo.

Áp dụng Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu và tiêu hủy lượng ma túy thu giữ.

- Tịch thu và tiêu hủy 01 bình nhựa có gắn nỏ thủy tinh (là dụng cụ sử dụng ma túy), 01 cân tiểu ly.

- Tịch thu sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động hiệu VIVO sim số: 070764X (đã bị bể màn hình) và 01 điện thoại di động hiệu NOKIA 1280 sim số: 09X6810.

Tại phiên tòa hôm nay khi nói lời sau cùng, các bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái, là vi phạm pháp luật nên không cần phải tranh luận, không bào chữa cho hành vi phạm tội của mình mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với kết luận điều tra của Công an quận Gò Vấp, cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan Tiến hành tố tụng và người Tiến hành tố tụng.

Đối chiếu với các Điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Phạm Thị T và Phạm Minh T2 đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 249 và Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

[2] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội. Mặc dù các bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, tổ chức, sử dụng..... trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma tuý và rủ rê tổ chức cho nhiều người cùng sử dụng ma túy bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật. Hành vi của các bị cáo đã tiếp tay duy trì sự mất ổn định trật tự xã hội, duy trì và tạo điều kiện cho các tệ nạn xã hội phát triển làm ảnh hưởng đến việc giảm sút sức lao động trong toàn xã hội. Các bị cáo đã tàng trữ 02 chất ma túy và cung cấp ma túy cho 02 người sử dụng nên Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp truy tố bị cáo theo điểm i khoản 1 Điều 249 và điểm b khoản 2 Điều 255 là có cơ sở.

Vì vậy, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với các bị cáo và cần thiết phải có một khoảng thời gian dài cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội nhằm tạo điều kiện cho các bị cáo từ bỏ con đường nghiện ngập và tiếp tục học tập phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

Do các bị cáo cùng lúc phạm hai tội nên khi lượng hình cần áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 để tổng hợp hình phạt cho các bị cáo.

[3] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại Cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay các bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình và bản thân các bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Đối với bị cáo Phạm Thị T là mẹ đơn thân một mình nuôi con nhỏ nên cũng cần xem xét khi lượng hình cho bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 các Điều 249 và Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017. Hội đồng xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của các bị cáo nên quyết định miễn phạt cho các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Phạm Thị T và hình dấu Công an Phường 14 quận Gò Vấp bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định và 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Phạm Thị T và hình dấu Công an Phường 14 quận Gò Vấp bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định là chất nhà nước cấm lưu hành và sử dụng không còn giá trị sử dụng, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 01 bình nhựa có gắn nỏ thủy tinh (là dụng cụ sử dụng ma túy), 01 cân tiểu ly các bị cáo dùng để sử dụng ma túy không còn giá trị sử dụng, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu VIVO sim số: 070764X (đã bị bể màn hình) và 01 điện thoại di động hiệu NOKIA sim số: 09X6810 là phương tiện các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử quyết định tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[6] Đối với Lê Chí N và Nguyễn Hải H qua xét nghiệm đều có kết quả dương tính với chất ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã bàn giao Nguyễn Hải H và Lê Chí N cho Công an phường 14 quận Gò Vấp để Tiến hành xử lý vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” là có cơ sở.

Đối với đối tượng tên Huỳnh Lê Hiếu T4 là người đã cất giấu ma túy tại nhà số A đường Phạm Văn Chiêu, phường X, quận Gò Vấp và người phụ nữ tên V là người bán ma túy tổng hợp (hàng đá) cho T cùng người đàn ông tên T5 giao ma túy cho T, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra sẽ tiếp tục áp dụng các biện pháp điều tra xác minh, khi nào xác định được lai lịch, có đủ tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội sẽ đề nghị xử lý sau theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Thị T và Phạm Minh T2 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Phạm Thị T 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; 07 (bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của 02 tội danh bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 21/6/2022.

Xử phạt bị cáo Phạm Minh T2 02 (hai) năm tù tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; 07 (bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của 02 tội danh bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 21/6/2022.

Căn cứ Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu và tiêu hủy một 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Phạm Thị T và hình dấu Công an Phường 14 quận Gò Vấp bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định và 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Phạm Thị T và hình dấu Công an Phường 14 quận Gò Vấp bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định, 01 bình nhựa có gắn nỏ thủy tinh (là dụng cụ sử dụng ma túy) và 01 cân tiểu ly - Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu VIVO sim số: 070764X (đã bị bể màn hình) và 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu đen sim số: 09X6810.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 128/PNK, ngày 08/9/2022 của Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khỏan 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự Nthi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2023/HS-ST

Số hiệu:25/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về