Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 192/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 192/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 191/2022/HSST ngày 07 tháng 9 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 182/2022/QĐXXST - HS ngày 15 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn D - Sinh năm 1969; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản A, xã B, huyện C, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Lò Văn M (đã chết) và bà Lò Thị S (đã chết); Bị cáo có vợ là Lò Thị X và có 04 con (con lớn nhất sinh năm 1988, con nhỏ nhất sinh năm 1996);

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 31/8/2009 bị Tòa án nhân dân huyện C xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 21/6/2022 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lò Văn Q, sinh năm 1994. Trú tại: Bản A, xã B, huyện C, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 45 phút ngày 21/6/2022 tổ công tác Công an xã D1 làm nhiệm vụ tại bản K2, xã D1, huyện C phát hiện Lò Văn D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ tại lòng bàn tay trái của D có 01 gói nilon màu xanh bên trong chứa chất bột liên kết màu trắng và 04 viên nén hình tròn màu hồng (D khai nhận là Heroine và Hồng phiến). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng, tạm giữ 01 xe mô tô Wave α Biển kiểm soát 26C1-082.52.

Ngày 22/6/2022 tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã tiến hành mở niêm phong cân tịnh xác định khối lượng, trích mẫu giám định. Kết quả: 04 viên nén màu hồng nghi là Hồng phiến có khối lượng 0,39 gam, trích 01 viên có khối lượng 0,09 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu D1, vật chứng còn lại 03 viên có khối lượng 0,30 gam lưu kho ký hiệu L1. Chất bột liên kết màu trắng thu giữ nghi là Heroine có tổng khối lượng 0,25 gam, trích 0,08 gam màu mẫu gửi giám định ký hiệu D2, vật chứng còn lại 0,17 gam làm vật chứng lưu kho ký hiệu L2.

Kết luận giám định số 1110/KL-KTHS ngày 24/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu D1 là ma túy; Loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,09 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu D2 là ma túy; Loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,08 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,25 gam loại Heroine và 0,39 gam loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra bị cáo khai nhận: Khoảng 14 giờ ngày 21/6/2022 D mang theo số tiền 200.000đ và điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 26C1-082.52 của con trai là Lò Văn Q đến bản S2, xã D1, huyện C mục đích tìm mua ma túy sử dụng. Đến bản S2, dọc đường vào bản D gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết hỏi mua được 01 gói nilon màu xanh bên trong có 04 viên Hồng phiến và một ít Heroine với số tiền 200.000đ. Mua được ma túy, D cầm gói ma túy ở lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe mô tô ra về. Đến 14 giờ 55 phút cùng ngày, D về đến khu vực bản K2, xã D1 thì gặp tổ công tác Công an xã D1 làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng cùng tài sản như đã nêu trên.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 121/CT-VKSSM ngày 06 tháng 9 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện C đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện C để xét xử Lò Văn D về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt Lò Văn D từ 24 - 28 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung. Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định được đựng trong 02 túi nilon cùng 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu và 01 mảnh nilon; Chấp nhận việc CQCSĐT trả lại xe mô tô cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: Anh là con ruột của bị cáo D, chiếc xe mô tô thu giữ trong vụ án là tài sản của anh. Khi bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội anh không hay biết vì đang đi làm thuê không có nhà, chiếc xe đã được CQCSĐT trả lại cho anh, anh nhất trí và không có ý kiến gì.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận gì và khi được nói lời sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, bị cáo nhất trí với ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau - Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 14 giờ 55 phút, ngày 21/6/2022 đối với Lò Văn D cùng vật chứng bị thu giữ là 01 gói nilon bên trong chứa chất bột liên kết màu trắng và 4 viên nén hình tròn màu hồng; Kết luận giám định số 1110/KL-KTHS ngày 24/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận là ma túy: “…Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,25 gam loại Heroine và 0,39 gam loại Methamphetamine”.

- Lời khai bị cáo về việc đã thường xuyên sử dụng ma tuý nên ngày 21/6/2022 đã hành vi tàng trữ 01 gói Heroine và 04 viên hồng phiến nhằm mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

- Lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 21/6/2022 khi bị cáo đã có hành vi tàng trữ 0,25 gam Heroine và 0,39 gam Methamphetamine (tổng khối lượng hai chất là 0,64 gam) mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt từ “01 năm đến 05 năm tù”.

[3] Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân rất xấu thể hiện ý thức coi thường pháp luật và tính khó giáo dục cải tạo.

[4] Về tính chất của vụ án, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

Vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và khối lượng ma túy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội để đưa ra một mức án phù hợp nhất, nhằm giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, góp phần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bản thân bị cáo và gia đình không có tài sản gì có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án:

Đối với số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định được đựng trong 02 túi nilon và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu cùng 01 mảnh nilon là những vật Nhà nước cấm tàng trữ lưu hành và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Về người đàn ông bị cáo khai là người đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai không biết rõ tên, địa chỉ cụ thể nên CQCSĐT không mở rộng điều tra vụ án là có căn cứ chấp nhận.

Đối với 01 xe mô tô thu giữ trong vụ án là tài sản hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lò Văn Q, khi bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội anh Q không biết, CQCSĐT đã trả lại xe cho anh Q là có căn cứ chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng, tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Lò Văn D phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Văn D 28 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/6/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 mảnh nilon, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở và 0,17 gam Heroine được đựng trong 01 túi nilon, 0,30 gam Methamphetamine được đựng trong 01 túi ni lon; Tất cả được đựng trong 01 phong bì đã dán kín, niêm phong đúng quy định, mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có mã số 080279.

Theo Quyết định chuyển vật chứng số 115/QĐ – VKS ngày 06/9/2022 của VKSND huyện C và theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/9/2022 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

Chấp nhận việc CQCSĐT đã trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Wave α, có Biển kiểm soát 26C1-082.52.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS; Các Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27/9/2022)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

54
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 192/2022/HS-ST

Số hiệu:192/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về