Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 191/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 191/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 188/2022/HSST ngày 06 tháng 9 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 188/2022/QĐXXST - HS ngày 15 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn T1 - Sinh năm 1982; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản B, xã S1, huyện M, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Lò Văn L và bà Lò Thị X; Bị cáo có vợ là Lò Thị M và có 02 con (con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2016);

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

+ Ngày 22/8/2017 bị TAND thành phố Bắc Ninh tuyên xử phạt 20 tháng tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

+ Ngày 08/10/2007 bị Công an huyện M ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy.

+ Ngày 13/02/2017 bị Chủ tịch UBND xã S1 ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời gian 03 tháng.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 10/6/2022 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lường Thị M3, sinh năm 1974.

Trú tại: B, xã S1, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 05 phút ngày 09/6/2022 tổ công tác Công an xã S1, M làm nhiệm vụ tại bản A, xã S1, huyện M phát hiện Lò Văn T1 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ tại ống tay lái bên trái của xe mô tô do T1 điều khiển có 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa chất bột liên kết màu trắng và 4 viên nén hình tròn màu hồng (T1 khai nhận là Heroine và Hồng phiến), tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra còn thu giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA BLADE màu đỏ - đen BKS 26F1 – 085.50.

Ngày 10/6/2022 tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M tiến hành mở niêm phong cân tịnh xác định khối lượng vật chứng nghi là ma túy, kết quả:

- 04 viên nén màu hồng tổng khối lượng 0,36 gam, trích 01 viên có khối lượng 0,08 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu T1, vật chứng còn lại 03 viên có tổng khối lượng 0,28 gam ký hiệu L1.

- Chất bột liên kết màu trắng có khối lượng 1,33 gam, trích 0,19 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu T2, vật chứng còn lại 1,14 gam ký hiệu L2.

Kết luận giám định số 1036 ngày 15/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận:

“ - Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,08 gam.

- Mẫu gửi giám định ký hiệu T2 là ma túy, loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,19 gam.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 1,33 gam, loại Heroine và 0,36 gam, loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra bị cáo khai nhận: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 09/6/2022 Lò Văn T1 điều khiển xe mô tô BKS 26F1 – 085.50 của bà Lường Thị M3 đi từ nhà đến bản T2 cùng ở xã S1 để tìm mua ma túy sử dụng, khi đi T1 mang theo số tiền 500.000đ, khi đến đầu bản T2 thì T1 gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết đang đứng ở ven đường T1 đi đến gần hỏi mua ma túy, người đàn ông bảo có và bảo T1 đưa tiền sẽ đi mua hộ, T1 lấy 500.000đ đưa cho người này, người đàn ông cầm tiền rồi đi vào phía trong bản khoảng 15 phút sau quay ra đưa cho T1 01 gói nilon màu trắng bên trong gói nilon màu trắng có chứa 01 gói nilon màu hồng bên trong có chứa Heroine và Hồng phiến, T1 cất giấu gói ma túy vào trong ống tay cầm lái của xe mô tô rồi điều khiển xe đi về, khi T1 về đến khu vực bản A, xã S1, huyện M thì bị tổ công tác Công an xã S1 kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng cùng tài sản như đã nêu trên.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 119/CT-VKSSM ngày 05 tháng 9 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện M đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện M để xét xử Lò Văn T1 về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt Lò Văn T1 từ 24 - 30 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung. Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định được đựng trong 02 túi nilon cùng 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu và 02 mảnh nilon; Chấp nhận việc CQCSĐT trả lại xe mô tô cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày: bà là dì ruột của bị cáo T1, chiếc xe mô tô thu giữ trong vụ án là tài sản của gia đình bà, được mua lại xe cũ của người khác nhưng chưa làm thủ tục sang tên đổi chủ. Khi bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội bà không hay biết, chiếc xe đã được CQCSĐT trả lại cho bà, bà nhất trí và không có ý kiến gì khác.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận gì và khi được nói lời sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, bị cáo nhất trí với ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau - Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 20 giờ 05 phút, ngày 09/6/2022 đối với Lò Văn T1 cùng vật chứng bị thu giữ là 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa 01 gói nilon màu hồng có chứa chất bột liên kết màu trắng và 4 viên nén hình tròn màu hồng; Kết luận giám định số 1036 ngày 15/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận là ma túy: “… Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 1,33 gam loại Heroine và 0,36 gam loại Methamphetamine”.

- Lời khai bị cáo về việc đã thường xuyên sử dụng ma tuý nên ngày 09/6/2022 đã hành vi tàng trữ 01 gói Heroine và 04 viên hồng phiến nhằm mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang.

- Lời khai nhận tội của bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 09/6/2022 khi bị cáo đã có hành vi tàng trữ 1,33 gam Heroine và 0,36 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt từ “01 năm đến 05 năm tù”.

[3] Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân rất xấu thể hiện ý thức coi thường pháp luật và tính khó giáo dục cải tạo.

[4] Về tính chất của vụ án, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

Vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và khối lượng ma túy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội để đưa ra một mức án phù hợp nhất, nhằm giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, góp phần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bản thân bị cáo và gia đình không có tài sản gì có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án:

Đối với số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định được đựng trong 02 túi nilon và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu cùng 02 mảnh nilon là những vật Nhà nước cấm tàng trữ lưu hành và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Về người đàn ông bị cáo khai là người đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai không biết rõ tên, địa chỉ cụ thể nên CQCSĐT không mở rộng điều tra vụ án là có căn cứ chấp nhận.

Đối với 01 xe mô tô thu giữ trong vụ án là tài sản hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lường Thị M3, khi bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội bà M3 không biết, CQCSĐT đã trả lại xe cho bà M3 là có căn cứ chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về điều luật áp dụng, tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Lò Văn T1 phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Văn T1 28 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/6/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 02 mảnh nilon, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở và 1,14 gam Heroine được đựng trong 01 túi nilon, 0,28 gam Methamphetamine được đựng trong 01 túi ni lon; Tất cả được đựng trong 01 phong bì đã dán kín, niêm phong đúng quy định, mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có mã số 080269.

Theo Quyết định chuyển vật chứng số 113/QĐ – VKS ngày 05/9/2022 của VKSND huyện M và theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 07/9/2022 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M.

Chấp nhận việc CQCSĐT đã trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA BLADE màu đỏ - đen, BKS 26F1 – 085.50.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS; Các Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 27/9/2022)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 191/2022/HS-ST

Số hiệu:191/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về