TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 14/2022/HS-ST NGÀY 02/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 02 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 125/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 02 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/HSST-QĐ ngày 18 tháng 02 năm 2022 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 125/TB-TA ngày 21 tháng 02 năm 2022, đối với các bị cáo:
1. Phan Phú K (Tên gọi khác: Không có); Sinh ngày 09/6/2001 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Số xxx H, tổ 46, phường H1, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 07/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Phan Văn T (sinh năm 1957, còn sống) và bà Võ Thị N (sinh năm 1974, còn sống).
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
- Ngày 01/4/2019, bị Toà án nhân dân quận Liên Chiểu xử phạt 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong hình phạt ngày 17/3/2020.
- Ngày 23.10.2018, bị Công an phường H1, quận Liên Chiểu xử phạt vi phạm hành chính số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma tuý”. Chấp hành xong ngày 03/5/2019.
- Ngày 25/02/2019, bị Công an phường H1, quận Liên Chiểu xử phạt vi phạm hành chính số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma tuý”. Chấp hành xong ngày 03/5/2019.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 29/9/2021 - Có mặt tại phiên tòa.
2. Phạm Công V (Tên gọi khác: Không có); Sinh ngày 16/8/2002 tại thành phố Đà Nẵng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: K64 xxxxxx TĐT, tổ 91, phường H, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 08/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông: Phạm Công V1 (sinh năm 1979, còn sống) và bà Lê Thị Bích N (sinh năm 1982, còn sống).
Tiền án: Không.
Tiền sự:
- Ngày 27/01/2021, bị Công an phường Hoà Khánh Bắc, quận Liên Chiểu xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng) về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma tuý”. Chấp hành xong ngày 04/02/2021.
- Ngày 11/6/2021 bị Công an quận Liên Chiểu xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Chấp hành xong ngày 15/6/2021.
- Ngày 09/6/2021, bị Ủy ban nhân dân phường Hoà Minh, quận Liên Chiểu áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường trong thời hạn 03 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma tuý”.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 29/9/2021 - Có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Thanh N - sinh năm 2000; Địa chỉ: K60/7 NC, tổ xx, phường H, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng - Vắng mặt.
- Người làm chứng: Ông Huỳnh Tấn - sinh năm 1969; Địa chỉ: Tổ xxx, phường H, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng - Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09 giờ 45 phút ngày 28/7/2021, tại trước kiệt 01 đường H, phường Hòa Minhh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, tổ công tác 911 Công an thành phố Đà Nẵng phối hợp với Công an phường Hoà Minh, quận Liên Chiểu kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang Phạm Công V và Phan Phú K có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Lúc đó, V đang điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 43F1- 268.79 chở K và bạn là Nguyễn Thanh Nhựt. Vật chứng thu giữ của K và V gồm:
- 01 gói nilong bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là chất ma tuý (kí hiệu M); 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh có gắn thẻ sim số 0934.792.872 của Phạm Công V.
- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 43F1- 268.79, 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen không gắn thẻ sim của Nguyễn Thanh Nhựt.
* Theo bản Kết luận giám định số 984/C09C-Đ2 ngày 10.8.2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: Chất tinh thể màu trắng kí hiệu M gửi giám định là chất ma tuý loại Methaphetamine khối lượng 0,13 gam.
Quá trình điều tra, từ lời khai của Phạm Công V, Phan Phú K, người làm chứng, người liên quan và các chứng cứ thu được, xác định:
Do có nhu cầu sử dụng trái phép chất ma tuý nên vào khoảng 04 giờ 00 phút ngày 28/7/2021, K liên hệ với một thanh niên tên Long (không rõ nhân thân, lai lịch) có số điện thoại 0777.377.578 để mua 01 gói ma tuý đá với giá 100.000 đồng về sử dụng và giao dịch mua ma tuý tại trước cổng Khu Công nghiệp Hoà Khánh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Sau khi mua ma tuý, K đem về nhà số 138 H, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng và sử dụng một ít, còn lại một tí K cất giữ tại nhà. Đến khoảng 08 giờ 00 phút cùng ngày, do có nhu cầu tiếp tục sử dụng ma tuý nên K liên hệ qua ứng dụng Messenger rủ V góp tiền mỗi người 100.000 đồng để mua ma tuý đá cùng sử dụng. Sau đó, K tiếp tục điện thoại cho Long hỏi mua 200.000 đồng ma tuý đá và hẹn giao dịch tại khu vực đường Đặng Chiêm, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. K điện thoại cho V đến trước số nhà 15 Đặng Chiêm để lấy ma tuý còn tiền K chuyển cho Long qua ứng dụng MoMo, sau khi lấy ma tuý về thì V sẽ góp 100.000 đồng cho K sau. Theo lời K, V mượn xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 43F1- 268.79 của Nguyễn Thanh Nhựt đi đến trước số nhà 15 Đặng Chiêm thì có một thanh niên không rõ lai lịch ra đưa ma tuý cho V. Sau đó, V điều khiển xe quay về rủ Nhựt đi chơi rồi cả hai đi đến nhà K. Nhựt hoàn toàn không biết trong người V có ma túy. Khi đến nhà K, Nhựt ở ngoài xe ngồi chờ còn V vào đưa ma tuý cho K thì K lấy số ma tuý còn trước đó đổ chung vào gói ma tuý đá này, sau đó cả hai đi ra chỗ Nhựt đang chờ. V chở K và Nhựt đi kiếm chỗ sử dụng ma túy, lúc đến trước kiệt 01 H, phường Hoà Minh, quận Liên Chiểu thì bị phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.
Tại Cáo trạng số 03/CT-VKS, ngày 24 tháng 12 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đã truy tố Phan Phú K và Phạm Công V đều về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
* Phát biểu của Viện kiểm sát:
- Về trách nhiệm hình sự:
+ Về hình phạt chính: Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu giữ nguyên toàn bộ nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng thời căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo Phan Phú K và Phạm Công V, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt Phan Phú K từ 18 đến 21 tháng tù, Phạm Công V từ 15 đến 18 tháng tù.
+ Về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, phạt bổ sung Phan Phú K và Phạm Công V mỗi bị cáo 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).
- Về xử lý vật chứng:
+ Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy toàn bộ mẫu ma túy còn lại sau giám định (ký hiệu M) đã được niêm phong theo phong bì giám định ma túy số 984/C09C-Đ2 ngày 10 tháng 8 năm 2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng.
+ Đối với 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu xanh, gắn thẻ sim 0934.792.872 là tài sản của Phạm Công V có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo và vẫn còn giá trị sử dụng nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu sung ngân sách Nhà nước.
+ Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen không gắn thẻ sim, 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 43F1-268.79 do Nguyễn Thanh Nhựt đứng tên chủ sở hữu, không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của V và K nên Cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Liên Chiểu đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản nêu trên cho Nguyễn Thanh Nhựt là đúng pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
- Đối với ông Nguyễn Thanh Nhựt không biết việc Phan Phú K và Phạm Công V tàng trữ trái phép chất ma túy, Cơ quan điều tra không xử lý trách nhiệm hình sự là đúng pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
- Đối với thanh niên tên “Long” đã có hành vi bán ma túy cho Phan Phú K, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, cũng như việc Cơ quan điều tra chưa xác định được chủ nhân của số điện thoại 0777.377.578 và chưa làm rõ được có việc liên lạc mua bán ma túy qua số điện thoại 0777.377.578 hay không. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Phan Phú K và Phạm Công V đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Các bị cáo xác nhận Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội và thấy được hành vi phạm tội, ăn năn hối cải.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo Phan Phú K và Phạm Công V và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo Phan Phú K và Phạm Công V trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra đã thu thập có tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định:
Khoảng 09 giờ 45 phút ngày 28/7/2021, tại trước kiệt 01 H, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, tổ công tác 911 Công an thành phố Đà Nẵng phối hợp với Công an phường Hoà Minh, quận Liên Chiểu kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang Phạm Công V và Phan Phú K đang tàng trữ 0,13 gam ma tuý loại Methaphetamine nhằm mục đích sử dụng.
Hành vi nêu trên của các bị cáo Phan Phú K và Phạm Công V đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như Cáo trạng số 03/CT-VKS, ngày 24 tháng 12 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3] Xét tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo thì thấy:
Hành vi phạm tội của các bị cáo trực tiếp xâm phạm đến chế độ, chính sách độc quyền về quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội.
[3.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo K không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng nhân thân xấu, đã từng 02 lần bị xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” đã được xóa và 01 lần bị xử phạt tù về tội “Cố ý gây thương tích” đã được xóa án tích. Bị cáo V có 02 tiền sự về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” và 01 tiền sự về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Các bị cáo phạm tội đồng phạm giản đơn, không có sự phân công, bàn bạc với nhau. Xét vai trò của bị cáo K là chủ đạo, rủ V sử dụng ma túy, còn bị cáo V chỉ đi theo K. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo K mức hình phạt cao hơn bị cáo V.
[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xem xét mức hình phạt các bị cáo khi lượng hình.
[3.3] Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, phạt bổ sung Phan Phú K và Phạm Công V mỗi bị cáo 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).
[3.4] Về xử lý vật chứng:
[3.4.1] Hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu tạm giữ toàn bộ các vật chứng sau:
- Toàn bộ mẫu ma túy sau giám định (ký hiệu M) theo phong bì giám định ma túy số 984/C09C-Đ2 ngày 10 tháng 8 năm 2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng (đối tượng hoàn trả sau giám định).
- 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu xanh, gắn thẻ sim 0934.792.872 (Toàn bộ các vật chứng nêu trên đang được Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu tạm giữ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29 tháng 12 năm 2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Liên Chiểu và Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu).
Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để tuyên tịch thu tiêu huỷ toàn bộ mẫu ma túy sau giám định (ký hiệu M) theo phong bì giám định ma túy số 984/C09C-Đ2 ngày 10 tháng 8 năm 2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng. Riêng đối với 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu xanh, gắn thẻ sim 0934.792.872 là tài sản của Phạm Công V có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo và vẫn còn giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 để tuyên tịch thu sung ngân sách Nhà nước.
[3.4.2] Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu đen không gắn thẻ sim, 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển kiểm soát 43F1- 268.79 do ông Nguyễn Thanh Nhựt đứng tên chủ sở hữu, không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của V và K nên Cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Liên Chiểu đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại tài sản nêu trên cho ông Nguyễn Thanh Nhựt là đúng pháp luật, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Đối với ông Nguyễn Thanh Nhựt không biết việc Phan Phú K và Phạm Công V tàng trữ trái phép chất ma túy, Cơ quan điều tra không xử lý trách nhiệm hình sự là đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Đối với thanh niên tên “Long” đã có hành vi bán ma túy cho Phan Phú K, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, cũng như việc Cơ quan điều tra chưa xác định được chủ nhân của số điện thoại 0777.377.578 và chưa làm rõ được có việc liên lạc mua bán ma túy qua số điện thoại 0777.377.578 hay không. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Án phí hình sự sơ thẩm: Phan Phú K và Phạm Công V mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng chẵn).
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Các bị cáo Phan Phú K và Phạm Công V phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
1. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt: Phan Phú K 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29 tháng 9 năm 2021.
2. Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt: Phạm Công V 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29 tháng 9 năm 2021.
3. Về hình phạt bổ sung:
3.1. Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, phạt bổ sung Phan Phú K số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng chẵn).
3.2. Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, phạt bổ sung Phạm Công V số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng chẵn).
4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuyên:
4.1. Tịch thu tiêu hủy toàn bộ mẫu ma túy sau giám định (ký hiệu M) theo phong bì giám định ma túy số 984/C09C-Đ2 ngày 10 tháng 8 năm 2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng (đối tượng hoàn trả sau giám định).
4.2. Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu NOKIA màu xanh, gắn thẻ sim 0934.792.872 (Toàn bộ các vật chứng nêu trên đang được Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu tạm giữ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29 tháng 12 năm 2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Liên Chiểu và Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu).
5. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc Phan Phú K và Phạm Công V mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).
6. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) kết quả xét xử tại nơi cư trú.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 06, 07, 07a và 09 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 14/2022/HS-ST
Số hiệu: | 14/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về