Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA AN, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 08/2023/HS-ST NGÀY 29/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 3 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 06/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/ 2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Hòa An đối với bị cáo:

Bế Văn H (tên gọi khác: Không); Sinh ngày 30 tháng 5 năm 1988 tại huyện Q, tỉnh Cao Bằng; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm L, xã H, huyện Q, tỉnh Cao Bằng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Bế Văn L, sinh năm 1962 và bà Lương Thị C sinh năm 1963 cùng trú tại xóm L, xã H, huyện Q, tỉnh Cao Bằng; Vợ, con: Chưa có; Anh chị em ruột: Có 03 anh chị em, bị cáo là con út trong gia đình.

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ công an huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng từ ngày 20/12/2022 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 00 phút ngày 20/12/2022, tại khu vực xóm B, xã N, huyện H, tỉnh Cao Bằng, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Hình sự - Kinh tế - Ma túy, Công an huyện Hòa An bắt quả tang Bế Văn H (sinh năm 1988, trú tại: xóm L, xã H, huyện Q, tỉnh Cao Bằng) đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Vật chứng thu giữ: 02 gói nhỏ có chứa chất bột màu trắng đem cân có khối lượng 0,3906gam (không phảy ba chín không sáu gam) thu giữ trong túi áo ngực bên trái H đang mặc (H khai đây là Heroin), 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh (điện thoại đã qua sử dụng).

Quá trình điều tra xác định: Khoảng gần 11 giờ ngày 20/12/2022, Bế Văn H đang ngồi uống nước tại khu vực bến xe cũ thuộc phường S, thành phố C thì có một người đàn ông không quen biết đến nói chuyện rồi rủ H góp tiền để đi mua Heroin về sử dụng chung. H đồng ý và góp cùng người này số tiền 200.000đ. Sau đó, người đàn ông chở H đi cùng, đến đoạn đường thuộc xóm B, xã N, huyện H người này cho H đứng đợi, một lúc sau quay lại đưa cho H 02 gói nhỏ Heroin rồi nói đi mua nước cất, xi lanh, còn H bước bộ vào đoạn đường vắng để sử dụng thì bị cơ quan Công an huyện Hòa An phát hiện và bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng như đã nêu ở trên.

Ngày 21/12/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hòa An ra Quyết định trưng cầu giám định số 01 ngày 21/12/2022 đối với vật chứng của vụ án. Tại bản Kết luận giám định số 16/KL-KTHS ngày 27/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine”.

Bản cáo trạng số: 06/CT-VKSHA ngày 09/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An đã truy tố bị cáo về Tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật và đề nghị Hội đồng xét xử Tuyên bố bị cáo Bế Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù .

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS + Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì được niêm phong theo quy định, mặt trước phong bì ghi: “Hoàn mẫu sau giám định vụ Bế Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 20/12/2022”. Mặt sau có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và đóng 04 dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng.

+ Đối với 01 chiếc điện thoại đã thu giữ của Bế Văn H, quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại cho bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên về tội danh và mức hình phạt. Tuy nhiên, trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc, xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo đã thực hiện, tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; lời khai nhận của bị cáo là phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà: Hồi 11 giờ 00 phút ngày 20/12/2022, tại khu vực xóm B, xã N, huyện H, tỉnh Cao Bằng, Bế Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,3906g (Không phẩy ba chín không sáu gam) Heroin nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy 0,3906 gam heroin của bị cáo là rõ ràng, bị bắt trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang. Do đó hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, Cao Bằng đã truy tố là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;...." [4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội và gây nguy hại cho cơ thể người sử dụng, ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của các thế hệ sau này, ảnh hưởng đến kinh tế của gia đình và xã hội Xét về nhân thân của bị cáo là người có chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ tác hại của ma túy, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tình tiết tăng nặng: không có. Tuy nhiên, với khối lượng ma túy là 0,3906gam nên khi xem xét mức hình phạt hội đồng xét xử cân nhắc với mức trên mức khởi điểm của khung hình phạt là phù hợp. Để đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo tính giáo dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm, xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nên Hội đồng xét xử xét thấy khả năng tự cải tạo của bị cáo là không đảm bảo, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết để nhằm giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo cũng như phòng ngừa chung đối với xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 của tội danh này quy định bị cáo còn có thể bị phạt tiền là hình phạt bổ sung. Xét thấy, bị cáo bản thân nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung với đối với bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tính chất mức độ, hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt của bị cáo là phù hợp với nhận định của HĐXX nên cần được chấp nhận.

[6] Liên quan đến vụ án này, đối với nguồn gốc số ma túy, H khai được góp tiền cùng một người đàn ông không biết họ tên, địa chỉ ở đâu nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hòa An đang tiếp tục điều tra, xác minh, nếu có căn cứ sẽ khởi tố trong vụ án khác. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS Đối với: 01 (một) phong bì được niêm phong theo quy định, mặt trước phong bì ghi: “Hoàn mẫu sau giám định vụ Bế Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 20/12/2022”. Mặt sau có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và đóng 04 dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng. Đây là vật nhà nước nghiêm cấm tàng trữ nên cần tịch thu, tiêu hủy là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Bế Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Bế Văn H 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 20/12/2022.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì được niêm phong theo quy định, mặt trước phong bì ghi: “Hoàn mẫu sau giám định vụ Bế Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 20/12/2022”. Mặt sau có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và đóng 04 dấu tròn của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng.

Xác nhận số vật chứng này hiện nay đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa An theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 21 ngày 09/3/2023.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án; Buộc bị cáo Bế Văn H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 08/2023/HS-ST

Số hiệu:08/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà An - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về