Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 01/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH HƯNG, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 01/2021/HS-ST NGÀY 17/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Ngày 17 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 02/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST - HS ngày 03 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị L; Giới tính: Nữ; Tên gọi khác: Không có; Sinh năm 1983; HKTT: Ấp Tr, xã Th, huyện V, tỉnh Long An; Nơi ở hiện nay: Ấp Ch, xã Th, huyện V, tỉnh Long An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Cha: Nguyễn Văn L; Mẹ: Ngô Thị Th; Chồng: Nguyễn Thanh Q; Có 02 người con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không; Về nhân thân: Không có vấn đề gì cần ghi nhận; Bị tạm giữ từ ngày 27/8/2020 đến ngày 30/8/2020 chuyển tạm giam, đến ngày 24/11/2020 cho bảo lĩnh đến ngày 01/02/2021. (Có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Đinh Quốc D, sinh năm 1984. Địa chỉ: Ấp T, xã Th, huyện V, tỉnh Long An. (Có mặt) 2. Ông Nguyễn V, sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp T, xã Th, huyện V, tỉnh Long An. (Có mặt) - Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Thanh Q, sinh năm 1980. Địa chỉ: Ấp T, xã Th, huyện V, tỉnh Long An. (Có mặt)

2. Bà Phạm Thị T, sinh năm 1976. Địa chỉ: Ấp T, xã Th, huyện V, tỉnh Long An. (Vắng mặt không lý do)

3. Bà Tô Thị M, sinh năm 1977. Địa chỉ: Khu phố 2, thị trấn H, huyện V, tỉnh Long An. (Có đơn xin vắng mặt)

4. Bà Ngô Thị Ngọc Y, sinh năm 1970. Địa chỉ: Khu phố 1, thị trấn H, huyện V, tỉnh Long An. (Có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 26/8/2020 Nguyễn Thị L điều khiển xe mô tô không có biển số kiểm soát, không có giấy chứng nhận đăng ký chạy đến đường tuần tra biên giới (cách trạm kiểm soát Biên phòng khoảng 200m) để mua 1.050 bao thuốc lá điếu nhập lậu (gồm 290 bao loại Scott, 390 bao loại Hero, 20 bao loại Jet, 240 bao loại Nelson và 110 bao loại Messi) của một người Campuchia tên Y (không rõ tên, tuổi địa chỉ cụ thể) rồi chở về cất giấu tại nhà riêng mục đích bán lại kiếm lời.

Ngoài ra, vào khoảng 05 giờ ngày 26/8/2020 Đinh Quốc D là em rể của Nguyễn Thị L có gửi tại nhà L 1.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu gồm 500 bao Jet và 500 bao Nelson.

Vào khoảng 20 giờ ngày 26/8/2020 Nguyễn Văn X là anh ruột của Nguyễn Thị L có gửi tại nhà L 1.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu loại Hero.

Vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 26/8/2020, Công an huyện Vĩnh Hưng kết hợp với Công an xã Th và Đồn biên phòng L bắt quả tang tại nhà riêng của Nguyễn Thị L 3.050 bao thuốc lá điếu nhập lậu nêu trên.

Sau khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can xác định được Nguyễn Thị L có hành vi giữ hộ 2.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu gồm 1000 bao loại Hero của ông Nguyễn Văn X và 500 bao loại Jet, 500 bao loại Nelson của ông Đinh Quốc D. Số còn lại là của L mua về để bán nhưng chưa kịp tiêu thụ thì bị bắt giữ.

Ngày 30/8/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Hưng ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Nguyễn Thị L về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo khoản 2 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Tại Cáo trạng số 03/CT-VKSVH ngày 22/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng truy tố Nguyễn Thị L về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Cáo trạng nhưng do Cáo trạng có sai sót về đánh máy nên sửa chữa tại dòng thứ 5 từ dưới lên của trang 1 ghi 3.050.000 bao thuốc lá thành 3.050 bao thuốc lá. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Nguyễn Thị L phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”. Áp dụng khoản 1, Điều 191; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 65 Bộ luật Hình sự xử phạt Nguyễn Thị L từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 đến 24 tháng. Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 2.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thống nhất với Cáo trạng và luận tội của Kiểm sát viên về tội danh và điều luật áp dụng, không tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Hưng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo

[2.1] Hội đồng xét xử xét lời khai của bị cáo phù hợp với bản Cáo trạng, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận: Lúc 22 giờ 30 phút, ngày 26/8/2020, Công an huyện V kết hợp với Công an xã Th và Đồn biên phòng K bắt quả tang tại nhà riêng của Nguyễn Thị L ở ấp T, xã Th, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An đang tàng trữ 2.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu (do Đinh Quốc D và Nguyễn Văn X gửi tại nhà của L).

[2.2] Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ thuốc lá điếu nhập lậu là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, số lượng thuốc lá điếu nhập lậu là 2.000 bao nên hành vi của bị cáo đã cấu thành tội tàng trữ hàng cấm theo quy định tại khoản 1 Điều 191 Bộ luật Hình sự nên Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ hàng cấm” là có căn cứ. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước. Do vậy, cần phải tuyên cho bị cáo một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, xong cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hình phạt áp dụng cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ: Mặc dù bị cáo có lời khai mâu thuẫn với những người có quyền lợi liên quan về thời gian nhận giữ thuốc lá nhưng đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo có chú ruột là liệt sĩ nên đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, chưa có tiền án tiền sự nên cần xem xét áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo cũng đủ cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt và có ích cho xã hội. Nên lời đề nghị của Kiểm sát viên được ghi nhận.

[6] Về vật chứng vụ án: 2.000 bao thuốc lá nhập lậu là hàng cấm lưu hành, tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp với Điều 47 Bộ luật Hình sự.

[7] Đối với hành vi mua 1.050 bao thuốc lá điếu nhập lậu của bị cáo về nhà cất giấu mục đích bán lại kiếm lời do không đủ yếu tố cấu thành tội phạm, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Hưng đã tách ra để làm thủ tục xử phạt hành chính nên Tòa án không xem xét.

[8] Đối với Đinh Quốc D có hành vi mua 1.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu, Nguyễn Văn X có hành vi mua 1.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu rồi gửi tại nhà của bị cáo mục đích bán lại kiếm lời do không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Hưng đã tách ra để làm thủ tục xử phạt hành chính nên Tòa án không xem xét.

[9] Đối với người đàn ông tên Y bán thuốc lá điếu cho bị cáo nhưng không có tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có cơ sở xem xét.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50, Điều 65 Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị L phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Th, huyện V, tỉnh Long An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách, gia đình bị cáo Nguyễn Thị L có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc phải chấp hành hình phạt của bản án này và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 2.000 bao thuốc lá điếu nhập lậu (trong đó 500 bao loại Jet, 500 bao loại Nelson và 1.000 bao Hero). Vật chứng hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An đang quản lý.

Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.

Báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ hàng cấm số 01/2021/HS-ST

Số hiệu:01/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Hưng - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về