TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 46/2024/HS-ST NGÀY 06/03/2024 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 06 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2024/TLST-HS ngày 29 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2024/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Lê H, sinh năm 1976 tại Q. Nơi cư trú: Tổ 1, khu Trạo Hà, phường Đức Chính, thị xã Đ, tỉnh Q; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh Th và bà Nguyễn Thị H; có vợ Ngô Thị Thanh H và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; hiện áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1973, nơi cư trú: Khu Xuân Cầm, phường Xuân Sơn, thị xã Đ, tỉnh Q; có mặt.
- Người làm chứng: Anh Đoàn Văn Đ; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Lê H là công nhân Công ty TNHH Đ 268 có địa chỉ tại khu Xuân Cầm, xã Xuân Sơn, thị xã Đ, tỉnh Q do anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1973 làm giám đốc. Khoảng tháng 5/2023, do không có giấy phép lái xe ô tô hạng FC nên H nảy sinh ý định làm giấy phép lái xe ô tô hạng FC giả để sử dụng khi điều khiển xe ô tô đầu kéo trên đường nếu bị lực lượng chức năng kiểm tra thì H sẽ xuất trình để không bị xử lý. Để thực hiện ý định trên, H thông qua mạng xã hội Facebook liên lạc và thỏa thuận với người sử dụng tài khoản Facebook “Bán bằng lái toàn quốc” (không rõ nhân thân, lai lịch) đặt mua 01 giấy phép lái xe hạng FC giả với số tiền 1.500.000 đồng. Sau đó H cung cấp các thông tin cá nhân, ảnh chân dung và lấy mã số trên giấy phép lái xe ô tô hạng B2 của H (H có giấy phép lái xe hạng B2 số 22007400xxxx do Sở Giao thông - Vận tải tỉnh Q cấp ngày 11/01/2023) và để lại số điện thoại di động của H để liên lạc. Khoảng 10 ngày sau, thông qua nhân viên giao hàng (không xác định được đơn vị giao hàng), H nhận được 01 phong bì bên trong có 01 giấy phép lái xe ô tô số 22007400xxxx, hạng FC mang tên Nguyễn Lê H, sinh ngày 14/4/1976, nơi cư trú: phường Đức Chính, thị xã Đ, tỉnh Q, ghi nơi cấp: Sở Giao thông - Vận tải tỉnh Q và trực tiếp trả số tiền 1.500.000 đồng tiền làm giấy phép lái xe giả cho người giao hàng. Sau khi thực hiện xong giao dịch, H đã xóa mọi thông tin liên lạc với bên giao hàng trên điện thoại. Sau đó, H nói dối với anh Đoàn Văn Đ, sinh năm 1982, trú tại thôn Phong Nội, xã Bình Dân, huyện Kim Th, tỉnh Hải Dương (lái xe của Công ty Đ 268) về việc H đã có giấy phép lái xe ô tô hạng FC.
Khoảng 15 giờ ngày 05/9/2023 anh Nguyễn Văn Th giao cho anh Đoàn Văn Đ điều khiển xe đầu kéo nhãn hiệu CNHTC mang BKS 14C - xxxx và Sơmi Rơ moóc tải nhãn hiệu CIMC mang BKS 98R - xxxx chở gạch đến thành phố H vào ngày 06/9/2023. Do có việc bận và nghĩ rằng H đã có giấy phép lái xe ô tô hạng FC nên anh Đ nhờ H điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS:
14C-xxxx kéo theo Sơmi Rơmoóc BKS: 98R-xxxx chở hàng đi giao thay anh Đ, H đồng ý. Khoảng 04 giờ ngày 06/9/2023, H một mình điều khiển xe ô tô đầu kéo kéo theo Sơmi Rơmoóc nêu trên chở gạch từ thị xã Đ, tỉnh Q đến khu vực Tràng Cát, quận Hải An, thành phố H. Sau khi giao hàng xong, khoảng 7 giờ 25 phút cùng ngày, khi H đang điều khiển xe trên đường tỉnh lộ 359 đoạn thuộc địa phận xã Tân Dương, huyện T, thành phố H thì bị Tổ tuần tra kiểm soát của Trạm Cảnh sát giao thông Lưu Kiếm, Phòng Cảnh sát giao thông Công an thành phố H ra tín hiệu yêu cầu dừng xe do vi phạm luật giao thông đường bộ. Quá trình kiểm tra Nguyễn Lê H đã xuất trình cho tổ công tác giấy tờ liên quan và 01 giấy phép lái xe ô tô số 22007400xxxx, hạng FC mang tên Nguyễn Lê H. Do nghi ngờ giấy phép lái xe trên là giả nên Tổ công tác đã lập biên bản tạm giữ phương tiện và các giấy tờ có liên quan đồng thời bàn giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T giải quyết.
Cơ quan Công an đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở và khu vực có liên quan của Nguyễn Lê H không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan.
Anh Nguyễn Văn Th có lời khai thể hiện: Xe ô tô đầu kéo BKS: 14C- xxxx kéo theo Sơmi Rơmoóc BKS: 98R-xxxx là tài sản của Công ty TNHH Đ 268, việc H sử dụng giấy phép lái xe hạng FC giả để điều khiển xe lưu thông trên đường, anh Nguyễn Văn Th là giám đốc Công ty TNHH Đ 268 không biết. Anh đã nhận lại xe và các giấy tờ liên quan nên không có yêu cầu đề nghị gì.
Tại Kết luận giám định số 238/KL-KTHS ngày 12/10/2023 và số 261/KL- KTHS ngày 27/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố H kết luận:
- 01 giấy phép lái xe ô tô số 22007400xxxx, hạng FC mang tên Nguyễn Lê H, sinh ngày 14/4/1976, nơi cư trú: phường Đức Chính, thị xã Đ, tỉnh Q, ghi nơi cấp: Sở Giao thông - Vận tải tỉnh Q là giả, được làm giả bằng phương pháp in màu kỹ thuật số.
- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 14000453 của xe ô tô đầu kéo BKS: 14C-xxxx tên chủ xe Công ty TNHH Đ 268 và 01 giấy chứng nhận đăng ký Sơmi Rơ moóc số 000532 mang BKS: 98R-xxxx mang tên Lê Xuân Th là thật.
Bản Cáo trạng số 45/CT-VKSTN ngày 24 tháng 01 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố H truy tố bị cáo Nguyễn Lê H về tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Lê H từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức nhưng cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
- Bị cáo Nguyễn Lê H thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thấy hành vi bị cáo đã thực hiện là sai trái, vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử khoan hồng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thu thập và thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, các bản Kết luận giám định số 238/KL-KTHS ngày 12/10/2023; số 261/KL- KTHS ngày 27/10/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H, lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, lời khai người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, công bố công khai tại phiên tòa thể hiện: Ngày 06/9/2023 tại đường tỉnh lộ 359 thuộc địa phận xã Tân Dương, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố H Nguyễn Lê H có hành vi sử dụng giấy phép lái xe ô tô số 22007400xxxx, hạng FC giả để điều khiển xe ô tô đầu kéo kéo theo Sơmi Rơmoóc tham gia giao thông vi phạm luật giao thông đường bộ bị Cơ quan Công an kiểm tra phát hiện. Bị cáo có đủ năng lực hành vi hình sự, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự như truy tố và đề nghị kết tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đối với bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.
[3] Tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, xâm phạm trật tự quản lý hành chính nên cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[4.1] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4.2] Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[5] Về hình phạt: Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Nguyễn Lê H phạm tội ít nghiêm trọng, nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; không có tình tiết tăng nặng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng; trước khi thực hiện hành vi phạm tội này bị cáo luôn chấp hành tốt các quy định của Nhà nước, bản thân bị cáo là người dân lao động thuần tuý nhất thời vi phạm pháp luật nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù nên áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo với mức hình phạt trên mức khởi điểm của khung hình phạt và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo cho bị cáo có cơ hội cải tạo ngoài xã hội, làm lại cuộc đời cũng đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Theo quy định tại khoản 4 Điều 341 của Bộ luật Hình sự bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nhưng xét bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng: 01 giấy phép lái xe ô tô số 22007400xxxx, hạng FC mang tên Nguyễn Lê H giả là vật chứng trực tiếp liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo được chuyển cùng hồ sơ vụ án. Đối với xe ô tô đầu kéo BKS: 14C-xxxx và Sơmi Rơmoóc mang BKS: 98R-xxxx cùng những giấy tờ liên quan, sau khi tiến hành các hoạt động điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại cho Công ty TNHH Đ 268 là có căn cứ và phù hợp với các quy định của pháp luật.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Trong vụ án này còn có đối tượng làm giả giấy phép lái xe ô tô hạng FC cho Nguyễn Lê H, quá trình điều tra hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể nên Cơ quan điều tra tách ra, làm rõ xử lý sau. Đối với anh Đoàn Văn Đ nghĩ rằng H đã có giấy phép lái xe ô tô hạng FC (do H đã nói dối với anh Đ là H có giấy phép lái xe ô tô hạng FC) và nhờ H điều khiển xe ô tô đầu kéo BKS: 14C-xxxx kéo theo Sơmi Rơmoóc BKS: 98R-xxxx giao hàng nhưng anh Đ không biết giấy phép lái xe ô tô hạng FC của H là giả nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp với các quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Lê H phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
- Căn cứ vào khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Lê H 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Nguyễn Lê H cho Ủy ban nhân dân phường Đức Chính, thị xã Đ, tỉnh Q giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo Điều 92 Luật Thi hành án hình sự như sau:
Người được hưởng án treo có thể vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính đáng và phải xin phép theo quy định tại khoản 2 Điều này, phải thực hiện khai báo tạm vắng theo quy định của pháp luật về cư trú. Thời gian vắng mặt tại nơi cư trú mỗi lần không quá 60 ngày và tổng số thời gian vắng mặt tại nơi cư trú không được vượt quá một phần ba thời gian thử thách, trừ trường hợp bị bệnh phải điều trị tại cơ sở y tế theo chỉ định của bác sỹ và phải có xác nhận điều trị của cơ sở y tế đó.
Người được hưởng án treo khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin phép và được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục; trường hợp không đồng ý thì Ủy ban nhân dân cấp xã phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người được hưởng án treo khi đến nơi cư trú mới phải trình báo với Công an cấp xã nơi mình đến tạm trú, lưu trú; hết thời hạn tạm trú, lưu trú phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi tạm trú, lưu trú. Trường hợp người được hưởng án treo vi phạm pháp luật, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó đến tạm trú, lưu trú phải thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục kèm theo tài liệu có liên quan.
Việc giải quyết trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thực hiện theo quy định tại Điều 68 của Luật này.
Người được hưởng án treo không được xuất cảnh trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo.
- Về vật chứng: Chuyển theo hồ sơ vụ án 01 giấy phép lái xe ô tô giả có số 22007400xxxx, hạng FC mang tên Nguyễn Lê H.
- Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Lê H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Lê H có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 46/2024/HS-ST
Số hiệu: | 46/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về