Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 47/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 47/2024/HS-ST NGÀY 26/04/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 26 tháng 4 năm 2024. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Vì xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2024/TLST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2024. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2024/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2024, đối với bị cáo:

Nguyễn Tài H, sinh ngày 28/7/2006. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn ĐH, thị trấn TĐ, huyện Ba Vì, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ, đoàn thể: Không; Con ông: Nguyễn Tài S, sinh năm 1975 và bà Nguyễn Thị Lan A, sinh năm 1976; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. (có mặt)

* Người giám hộ của bị cáo:

- Ông Nguyễn Tài S, sinh năm 1975. Có mặt - Bà Nguyễn Thị Lan A, sinh năm 1976. Có mặt Cùng Địa chỉ: Thôn ĐH, thị trấn TĐ, huyện Ba Vì, Hà Nội

* Người bào chữa cho bị cáo:Ông Phan H S – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước Thành phố Hà Nội. Có mặt

*Bị hại:

- Anh H Anh Đ, sinh năm 2005. Có mặt Địa chỉ: Thôn P, xã P, huyện Ba Vì, Hà Nội - Anh Dương Quốc A, sinh năm 2005. Có mặt.

Địa chỉ: Thôn P, xã P, huyện Ba Vì, Hà Nội.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Văn Tr, sinh năm 1998. Vắng mặt Địa chỉ: Đội 15, T, xã H, huyện Mỹ Đ, Hà Nội.

- Bà Phan Thị Thanh H, sinh năm 1984. Có mặt.

Địa chỉ: Thôn P, xã P, huyện Ba Vì, Hà Nội.

- Bà Nguyễn Thị Lan A, sinh năm 1976. Có mặt Địa chỉ: Thôn ĐH, thị trấn TĐ, huyện Ba Vì, Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 07/11/2023, Dương Quốc A- sinh ngày 16/11/2005 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 29V1- X chở H Anh Đ- sinh ngày 20/01/2005 đến nhà Nguyễn Văn T1- sinh năm 2005 ở Vân Hồng- TĐ- Ba Vì- Hà Nội chơi. Tại đây, Quốc A và Đ gặp một số bạn bè quen biết như: Nguyễn Tài H- sinh ngày 28/7/2006; Đỗ Đ S- sinh năm 2005, Nguyễn Thành P- sinh năm 2007; đều trú tại: TĐ- Ba Vì- Hà Nội. Đến khoảng 21h cùng ngày, H nảy sinh ý định mượn chiếc xe mô tô BKS: 29V1- X của Quốc A để mang đi “ cắm” lấy tiền tiêu xài. Thực hiện ý định, H nhắn tin cho Phùng Nghĩa S- sinh năm 2003; trú tại: thôn Đông Hữu- Phú Sơn- Ba Vì- Hà Nội để hỏi S chỗ cắm xe nhưng S không biết. Sau đó, H hỏi mượn xe Quốc A, nói dối là để về nhà lấy tiền. Do không chơi thân và không tin tưởng nên Quốc A không đồng ý cho H mượn xe, Quốc A bảo Đ dùng xe của mình chở H về nhà. Do không biết nhà H nên Đ đã để H điều khiển xe mô tô nêu trên, còn Đ ngồi phía sau. Trên đường đi, H kể cho Đ nghe về việc H đã “ cắm” chiếc điện thoại và xe đạp điện của H. Sợ bị bố mẹ phát hiện nên H đã đề nghị Đ cho H mượn điện thoại của Đ và xe mô tô BKS 29V1- X của Quốc A để đi vào nhà cho bố mẹ nhìn thấy rồi sẽ quay ra trả lại cho Đ. Biết Đ không biết nhà mình nên H điều khiển xe mô tô đến ngõ 287 đường Phú Mỹ- TĐ- Ba Vì- Hà Nội. Khi đến đầu ngõ, H dừng xe lại và nói dối Đ là nhà H ở trong ngõ. Tại đây, H tiếp tục hỏi mượn điện thoại và xe mô tô để đi vào nhà, khoảng 10 phút sẽ quay trở lại. Đ tin tưởng nên đã đồng ý cho H mượn. Đ đưa 01 chiếc điện thoại Iphone 6 Plus, màu trắng, trong lắp sim số thuê bao 0389.199.504 và đọc mật khẩu màn hình điện thoại 200105 của Đ để H tiện sử dụng. Sau đó, H điều khiển xe mô tô, cầm theo chiếc điện thoại của Đ đi vào trong ngõ 287 còn Đ đứng ở đầu ngõ chờ H. Đứng chờ khoảng 30 phút không thấy H quay ra nên Đ đã đi vào trong ngõ tìm H nhưng không thấy H đâu. Đ đi bộ quay lại nhà T1 để báo cho Quốc A biết. Tại đây, Sang đã gọi vào số thuê bao di động của Đ nhưng H không nghe máy. Quốc A đã báo cho mẹ đẻ là chị Phan Thị Thanh H- sinh năm 1984; trú tại: P- Ba Vì- Hà Nội, là chủ sở hữu của chiếc xe mô tô BKS: 29V1- X. Chị H đã cùng Quốc A, Đ, Sang và Phong đến nhà H. Khi đến nhà H, chị Nguyễn Thị Lan A- sinh năm 1976, là mẹ của H cho biết H không có nhà. Những ngày sau vẫn không liên lạc được với H nên Đ đã làm đơn trình báo đến công an thị trấn TĐ, huyện Ba Vì, Hà Nội.

Về phía H, sau khi đi vào ngõ 287 đường Phú Mỹ, H đã điều khiển xe mô tô đi vòng ra đường Quốc lộ 32, rồi đi xuống khu vực nội thành Hà Nội. Khi đi đến địa phận huyện Đan Phượng, H đã tháo sim điện thoại của Đ ra và bán chiếc điện thoại Iphone 6 Plus của Đ cho một cửa hàng điện thoại với giá 200.000 đồng ( H không nhớ biển hiệu và địa chỉ cụ thể của cửa hàng). Sau đó, H di chuyển xuống gần khu vực bến xe Mỹ Đình và vào một quán internet chơi qua đêm. Những ngày sau đó, H lang thang kiếm sống ở khu vực nội thành Hà Nội ( sáng đi làm thuê, tối vào quán internet chơi và ngủ nhờ qua đêm). H đã mang xe mô tô nêu trên đến một số cửa hàng cầm đồ ở khu vực quận Nam Từ Liêm để cầm cố nhưng do xe không có giấy tờ nên các cửa hàng không nhận cầm cố.

Thông qua bạn bè nhắn tin, H biết gia đình Quốc A và Đ đang đi tìm mình nên H sợ không dám về nhà. Đến ngày 16/11/2023, H lên facebook cá nhân nhắn tin cho người quen là Nguyễn Văn Tr- sinh năm 1998; trú tại: T- xã H- huyện Mỹ Đ- Hà Nội làm nghề bán nước ép hoa quả ở cổng chợ Nhổn để nhờ Trường cầm cố xe máy. Trường đồng ý và bảo H mang xe đến gặp Trường. Khi gặp nhau, Trường hỏi về nguồn gốc xe thì H nói dối là xe của gia đình. H xin cắm xe với giá 1.500.000 đồng, khoảng 1-2 ngày sẽ chuộc lại. Trường đồng ý và cho biết lãi cắm xe là 100.000 đồng/ ngày. Ngày 18/11/2023, H bị ốm và hết tiền tiêu xài nên đã gọi điện cho mẹ ( chị Lan A) nhờ chị Lan A bảo anh trai cùng mẹ khác cha của H là Trần Xuân Độ- sinh năm 2002, hiện đang sinh sống tại quận Nam Từ Liêm mua thuốc và đồ ăn đến cho H. Khoảng 15h cùng ngày, chị Lan A và Độ đến nhà nghỉ Hoài Linh gặp H. Tại đây, chị Lan A đã hỏi H về chiếc xe mô tô BKS 29V1-X của Quốc A. H cho biết đã mang đi cầm cố. Chị Lan A yêu cầu H liên hệ với người nhận cầm cố xe để chuộc xe về trả cho gia đình Quốc A. Tối cùng ngày, H đã liên hệ với Trường để hẹn chuộc xe. Do cần tiền nên H nói với Trường: Khi nào gia đình H đến chuộc xe thì cứ bảo H cắm xe với giá 2.500.000 đồng, tiền lãi 3 ngày là 300.000 đồng, còn 1.000.000 đồng H sẽ lấy sau. Chiều ngày 19/11/2023, anh Độ đã gặp Trường tại cổng chợ Nhổn và chuộc lại chiếc xe mô tô BKS 29V1- X. Chị Lan A đã giao nộp chiếc xe trên cho công an thị trấn TĐ, huyện Ba Vì, Hà Nội.

Ngày 28/11/2023, Cơ quan CSĐT- CAH Ba Vì đã có Yêu cầu định giá tài sản số 127 yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Ba Vì định giá đối với chiếc điện thoại Iphone 6 Plus và chiếc xe mô tô Honda wave, BKS: 29V1- X.

Tại Bản Kết luận định giá số 127 ngày 06/12/2023, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Ba Vì kết luận:

- 01 điện thoại Iphone 6 Plus, đã qua sử dụng trị giá: 500.000 đồng - 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda wave anpha, màu trắng, BKS 29V1-X, xe đã qua sử dụng trị giá 12.000.000 đồng Ngày 17/01/2024 cơ quan CSĐT- CAH Ba Vì đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 135 trao trả chiếc xe mô tô nêu trên cho chị Phan thị Thanh H. Sau khi nhận lại tài sản, chị H không có yêu cầu, đề nghị gì về dân sự.

Đối với việc H cắm xe với giá 1.500.000 đồng nhưng đã nhờ Trường nói dối bà Nguyễn Thị Lan A là 2.500.000 đồng để chiếm đoạt số tiền chênh lệch 1.000.000 đồng. Do số tiền chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng, nhân thân H và Trường chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy, hành vi nêu trên của H và Trường không cấu thành tội “ lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Đối với Nguyễn Văn Tr- là người nhận cầm cố xe mô tô BKS 29V1- X của H. Quá trình điều tra xác định, khi nhận cầm cố, anh Trường không biết chiếc xe trên là tài sản do H lừa đảo chiếm đoạt mà có. Vì vậy, hành vi của Nguyễn Văn Tr không cấu thành tội “Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” quy định tại Điều 323 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, Trường không đăng kí hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự mà vẫn nhận cầm cố tài sản cho H với lãi suất 200%/tháng- vượt quá tỉ lệ lãi suất theo quy định của Bộ luật dân sự. Do đó, hành vi của Nguyễn Văn Tr đã vi phạm điểm đ- Khoản 4- Điều 12 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính Phủ. Việc giao dịch cầm cố giữa H và Trường diễn ra tại cổng chợ Nhổn thuộc phường Phương Canh- quận Nam Từ Liêm- Hà Nội. Vì vậy, cơ quan CSĐT- CAH Ba Vì đã chuyển tài liệu đến UBND quận Nam Từ Liêm, Hà Nội để ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn Tr theo quy định pháp luật.

Về dân sự: Chị Nguyễn Thị Lan A đã bồi thường cho H Anh Đ 600.000 đồng để khắc phục hậu quả do hành vi chiếm đoạt chiếc điện thoại Iphone 6 Plus của H gây ra. Sau khi nhận lại tài sản, Đ không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự. Tại phiên tòa, anh Nguyễn Tài S (bố đẻ của bị cáo H) đã tự nguyện bồi thường xong cho anh Dương Quốc A, bà Phan Thị Thanh H số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) tiền sửa chữa hư hỏng của chiếc xe máy Honda wave anpha, màu trắng, BKS 29V1-X. Anh Quốc A và bà H không có yêu cầu đề nghị gì thêm về dân sự.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Tài H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng số 26/CT-VKS ngày 01/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì đã truy tố, tỏ thái độ ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất.

Đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tài H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Tài H từ 09 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng.

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ba Vì, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Tối ngày 07/11/2023, Nguyễn Tài H đã đưa ra thông tin gian dối, tạo lòng tin đối với H Anh Đ và Dương Quốc A để chiếm đoạt chiếc điện thoại Iphone 6 Plus trị giá 500.000 đồng của Đ và chiếc xe máy Honda wave, BKS: 29V1-X trị giá 12.000.000 đồng của Quốc A (Tổng giá trị tài sản là 12.500.000 đồng). Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai người có quyền lợi nghiã vụ liên quan, kết luận định giá tài sản và các chứng cứ tài liệu khác đã đầy đủ cơ sở kết luận Nguyễn Tài H đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 BLHS.

[3] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã cùng gia đình tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải. Tại phiên tòa, người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nên bị cáo H được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Tính chất mức độ, nhân thân, hình phạt đối với bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, an ninh xã hội; thể hiện ý thức coi thường pháp luật, nên cần có một hình phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo. Bị cáo phạm tội khi chưa thành niên nên áp dụng Điều 91, Điều 101 BLHS để quyết định hình phạt đối với bị cáo. Bị cáo có nơi cư trú rõ ràng phạm tội lần đầu đã thành khẩn khai báo khắc phục hậu quả nên áp dụng Điều 65 BLHS cho bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đủ giáo dục.

Bị cáo không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Các vấn đề khác:

Đối với việc H cắm xe với giá 1.500.000 đồng nhưng đã nhờ Trường nói dối bà Nguyễn Thị Lan A là 2.500.000 đồng để chiếm đoạt số tiền chênh lệch 1.000.000 đồng. Do số tiền chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng, nhân thân H và Trường chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy, hành vi nêu trên của H và Trường không cấu thành tội “ lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Khoản 1- Điều 174 Bộ luật hình sự.

Đối với Nguyễn Văn Tr- là người nhận cầm cố xe mô tô BKS 29V1- X của H. Quá trình điều tra xác định, khi nhận cầm cố, anh Trường không biết chiếc xe trên là tài sản do H lừa đảo chiếm đoạt mà có. Vì vậy, hành vi của Nguyễn Văn Tr không cấu thành tội “ Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Tuy nhiên, Trường không đăng kí hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự mà vẫn nhận cầm cố tài sản cho H với lãi suất 200%/tháng- vượt quá tỉ lệ lãi suất theo quy định của Bộ luật dân sự. Do đó, hành vi của Nguyễn Văn Tr đã vi phạm điểm đ- Khoản 4- Điều 12 Nghị định 144/2021/NĐ- CP ngày 31/12/2021 của Chính Phủ. Việc giao dịch cầm cố giữa H và Trường diễn ra tại cổng chợ Nhổn thuộc phường Phương Canh- quận Nam Từ Liêm- Hà Nội. Vì vậy, cơ quan CSĐT- CAH Ba Vì đã chuyển tài liệu đến UBND quận Nam Từ Liêm, Hà Nội để ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Nguyễn Văn Tr là đúng quy định pháp luật.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Chị Nguyễn Thị Lan A đã bồi thường cho H Anh Đ 600.000 đồng để khắc phục hậu quả do hành vi chiếm đoạt chiếc điện thoại Iphone 6 Plus của H gây ra. Sau khi nhận lại tài sản, Đ không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự. Tại phiên tòa, ông Nguyễn Tài S đã tự nguyện bồi thường xong cho người bị hại Dương Quốc A và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Phan Thị Thanh H số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) tiền sửa chữa hư hỏng của chiếc xe máy Honda wave anpha, màu trắng, BKS 29V1-X. Anh Quốc A và bà H không có yêu cầu đề nghị gì thêm về dân sự. Nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65; Điều 47; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự. Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án,

Xử:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tài H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản“ 2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tài H 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Tài H về Ủy ban nhân dân thị trấn TĐ, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo H.

3. Bị cáo Nguyễn Tài H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo, người đại diện theo pháp luật của bị cáo, người bào chữa của bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

8
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 47/2024/HS-ST

Số hiệu:47/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về