Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 263/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 263/2022/HS-ST NGÀY 25/07/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 190/2022/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 280/2022/QĐXXST–HS ngày 07 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Lan T, sinh ngày: 06/9/1982 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: 504 T, phường Tân Quy, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở:

Nhà trọ chưa cấp số thuộc hẻm 3, T, khu phố 2, phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa:

12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn H và bà: Hoàng Thị N; có chồng và 01 con sinh năm 2017; tiền án: không có; tiền sự: không có; nhân thân: Bản án số 66/2016/HSST ngày 11/3/2016 của Tòa án nhân dân Quận 7 xử phạt 02 năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/7/2016 và thi hành xong án phí; bị bắt, tạm giam ngày 31/12/2021. (có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Trung H, sinh năm: 1986.

Thường trú: 597F lô T Đoàn Văn Bơ, Phường 9, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tạm trú: 465/1 Nguyễn Thị Định, khu phố 2, phường C, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt) 2. Bà Nguyễn Thị Anh T1, sinh năm: 1994.

Thường trú: 14/119D P, phường Tăng Nhơn Phú A, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1]. Vào lúc 15 giờ 45 phút ngày 31/12/2021, tại ngã ba đường số 54 giao với đường số 55, phường Bình Trưng Đông, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Công an thành phố Thủ Đức phát hiện Nguyễn Thị Lan T đang điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vision màu trắng biển số 59X1-xxxxx có biểu hiện nghi vấn. Qua kiểm tra phát hiện trong túi áo khoác phía trước bên trái của T có cất giấu 02 gói nylon bên trong có chứa tinh thể không màu. T khai nhận là ma túy loại Methamphetamine, T đang đi bán cho người khác nên bị bắt giữ.

Qua khám xét tại phòng 103 khách sạn Hana, số 26 đường số 6, phường P, thành phố Thủ Đức là nơi T thuê để ở, thu giữ: 01 bình gas màu đen hiệu Bluestar; 01 chai nhựa Sting trên nắp chai có gắn nỏ thủy tinh và ống hút.

Tại Cơ quan điều tra, T khai nhận do nghiện ma túy, để có tiền tiêu xài và có ma túy để sử dụng nên T đã nảy sinh ý định mua ma túy về phân nhỏ, bán lại kiếm lời và sử dụng. Bắt đầu từ tháng 12/2021, T mua 02 gói ma túy đá loại Methamphetamine của một người trên mạng xã hội Zalo tên H (không rõ nhân thân, lai lịch) và sau đó bán lại cho Nguyễn Trung H 03 lần, mỗi lần giá 400.000 đồng tại vòng xoay P, thành phố Thủ Đức. Lần gần nhất vào ngày 30/12/2021 (lần lâu nhất T không nhớ rõ thời gian cụ thể, chỉ nhớ khoảng đầu tháng 12/2021) và bán cho một người tên Đào (chưa rõ lai lịch) 01 lần giá 200.000 đồng tại vòng xoay chân cầu Phú Mỹ, Quận 7. T thu lợi khoảng 1.000.000 đồng. Ngày 31/12/2021, H tiếp tục liên hệ với T qua điện thoại để mua ma túy thì T đồng ý và hẹn giao ma túy tại vòng xoay P. T điều khiển xe Honda Vision màu trắng biển số: 59X1-xxxxx, mượn của Nguyễn Thị Anh T1 đến địa điểm trên để giao ma túy cho H thì bị phát hiện.

Nguyễn Trung H khai nhận mua ma túy của Nguyễn Thị Lan T 03 lần, lần gần nhất mua là 30/12/2021, tại vòng xoay P, phù hợp với lời khai của T.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Nguyễn Thị Lan T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản Kết luận giám định số 397/KLGĐ-MT ngày 06/01/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu trong 02 gói nylon ký hiệu m1 và m2 gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng lần lượt là m1= 2,4448 gam, m2= 0,4453 gam; tổng khối lượng 02 gói là 2,8901 gam, loại Methamphetamine.

Xét nghiệm ma túy đối với Nguyễn Thị Anh T1 và Nguyễn Trung H dương tính với ma túy nên Cơ quan điều tra đã chuyển Công an phường nơi cư trú xử lý hành chính.

* Vật chứng vụ án:

- 02 gói nylon chưa tinh thể không màu có tổng khối lượng là 2,8901 gam, loại Methamphetamine.

- 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu đen, số điện thoại 090446xxxx của Nguyễn Thị Lan T dùng để liên lạc mua, bán ma túy.

- 01 bình gas đen hiệu Blue Star; 01 chai nhựa Sting trên nắp có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen không gắn sim Nguyễn Thị Lan T dùng chơi game.

- 01 xe gắn máy hiệu Honda Vision màu trắng biển số: 59X1-xxxxx, số máy: JF58E0103176; số khung: 5808EY103101. Xác minh chủ sở hữu xe là Nguyễn Thị Anh T1, qua điều tra làm rõ, Nguyễn Thị Anh T1 không biết việc Nguyễn Thị Lan T mượn xe để đi bán ma túy.

Tại Bản Cáo trạng số 179/CT-VKSTP.TĐ ngày 23/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức truy tố bị cáo Nguyễn Thị Lan T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Lan T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thị Lan T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Lan T từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm tù. Và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Xét lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Thị Lan T phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, biên bản thu giữ vật chứng, bản kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập. Từ đó có đủ căn cứ xác định: Từ tháng 12/2021, bị cáo Nguyễn Thị Lan T mua ma túy loại Methamphetamine của một người có tài khoản mạng Zalo tên H để sử dụng và bán lại kiếm lời. Bị cáo mua của H 02 lần, lần đầu 600.000 đồng và lần sau 1.700.000 đồng. Sau đó, bị cáo bán lại cho Nguyễn Trung H 03 lần vào đầu tháng 12/2021, giữa tháng 12/2021 và ngày 30/12/2021, mỗi lần bán 400.000 đồng tại vòng xoay P, thành phố Thủ Đức. Ngoài ra, còn bán cho một đối tượng khác tên Đào (không rõ lai lịch) 200.000 đồng tại vòng xoay chân cầu Phú Mỹ, Quận 7. Vào khoảng 15 giờ 45 phút ngày 31/12/2021, bị cáo đến vòng xoay P để bán ma túy cho Hậu thì bị phát hiện, thu giữ của bị cáo 02 gói nylon, qua giám định là Methamphetamine có tổng khối lượng 2,8901 gam. Bị cáo thu lợi từ việc bán ma túy với số tiền là 1.000.000 đồng.

Với các tình tiết của vụ án đã được chứng minh tại phiên tòa, xét có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thị Lan T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 251 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo mua ma túy loại Methamphetamine và bán lại cho đối tượng Nguyễn Trung H 03 lần, thuộc trường hợp phạm tội 02 lần trở lên. Do đó, cần áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự để xét xử đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị xét xử về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Từ những nhận định như trên, khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo để áp dụng mức hình phạt tương xứng, phù hợp nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

Trong vụ án này, bị cáo có hưởng lợi do mua bán trái phép chất ma túy do đó, căn cứ vào mức độ và hậu quả do bị cáo gây ra, cần áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự phạt bị cáo nộp số tiền tương ứng với hành vi phạm tội để sung vào ngân sách nhà nước.

Đối với Nguyễn Trung H, mua ma túy của bị cáo để sử dụng nhưng chưa nhận được ma túy và cũng chưa trả tiền. Đối với 03 lần trước mua ma túy của bị cáo thì không thu giữ được vật chứng, không xác định được khối lượng ma túy nên chưa đủ căn cứ xử lý Hậu. Cơ quan điều tra đã chuyển cho chính quyền địa phương xử lý hành chính.

Đối với Nguyễn Thị Anh T1, qua điều tra xác định Nguyễn Thị Anh T1 không biết Nguyễn Thị Lan T cất giấu ma túy trong túi áo và mượn xe đi bán ma túy nên không có căn cứ để xử lý.

Đối với đối tượng có tài khoản tên H bán ma túy cho bị cáo và đối tượng tên Đào (chưa rõ lai lịch) mua ma túy của bị cáo, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

[3]. Về xử lý vật chứng:

- 01 gói niêm phong có chữ ký của Giám định viên và Cán bộ điều tra, bên trong là ma túy còn lại sau giám định là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 bình gas đen hiệu Blue Star.

- 01 chai nhựa Sting trên nắp có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa. Không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu đen, số điện thoại 090446xxxx thu giữ của bị cáo, liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- 01 xe gắn máy hiệu Honda Vision màu trắng biển số: 59X1-xxxxx, số máy: JF58E0103176; số khung: 5808EY103101. Qua xác minh thì xe của Nguyễn Thị Anh T1, Nguyễn Thị Anh T1 không biết bị cáo mượn xe đi bán ma túy nên trả lại cho Nguyễn Thị Anh T1.

- Bị cáo khai nhận thu lợi từ việc ma bán ma túy số tiền 1.000.000 đồng, cần buộc bị cáo nộp lại số tiền này để sung vào ngân sách nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Lan T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

+ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Lan T 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 31/12/2021.

+ Phạt tiền bổ sung bị cáo Nguyễn Thị Lan T số tiền 10.000.000 (Mười triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước ngay sau khi bản án có hiệu lực thi hành.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy:

* Mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ được giám định niêm phong có chữ ký của GDV và Cán bộ điều tra chứa tinh thể không màu m1 khối lượng 2,1057 gam, tinh thể không màu m2 khối lượng 0,3591 gam.

* 01 bình gas đen hiệu Blue Star.

* 01 chai nhựa Sting trên nắp có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa.

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Redmi màu đen, số điện thoại 090446xxxx.

+ Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen.

+ Trả lại cho Nguyễn Thị Anh T1: 01 xe gắn máy hiệu Honda Vision màu trắng biển số: 59X1-xxxxx, số máy: JF58E0103176; số khung: 5808EY103101.

(Theo Phiếu nhập kho số NK22/029C ngày 27/5/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức) + Buộc bị cáo nộp số tiền thu lợi bất chính 1.000.000 (Một triệu) đồng để sung vào ngân sách nhà nước.

Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cần thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 263/2022/HS-ST

Số hiệu:263/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về