Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 257/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 257/2021/HS-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 561/2021/HSST ngày 13 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 4187/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Quốc D; giới tính: nam; sinh năm: 1993 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 3A BĐ, Phường T, Quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: xe ôm; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ VT (chết) và bà Trần Thị NM (chết); hoàn cảnh gia đình: có vợ và 01 con sinh năm 2016; tiền sự: không.

Tiền án: Ngày 29/6/2017 bị Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/5/2019.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 17/12/2020 (có mặt).

Những người tham gia tố tụng:

Người bào chữa: Ông Nguyễn Minh C - Luật sư Văn phòng luật sư Đ thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa chỉ định cho bị cáo (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 10/2020, vợ chồng Bé H và T (không rõ lai lịch) thường xuyên thuê Trần Quốc D đi mua đồ ăn nên cả ba quen biết nhau.

Khoảng giữa tháng 11/2020, Bé H đưa cho D một bịch ma túy đựng trong túi nylon màu đen để giao cho đối tượng Hữu (không rõ lai lịch) tại khu vực quốc lộ 1A, huyện Bình Chánh và nhận 15.500.000 đồng đem về cho Bé H, D được trả công 300.000 đồng. Trưa ngày 17/12/2020, T điện thoại nói D tới nhà T tại địa chỉ C ấp N, xã BH, huyện BC. Tại đây, Bé H tiếp tục đưa cho D 01 gói ma túy để giao cho Hữu. Do biết là ma túy nên lúc đầu D từ chối nhưng bé H hứa trả công 300.000 đồng và D đang gặp khó khăn nên D đã đồng ý và điều khiển xe gắn máy biển số 47T1-xxxxx đi giao. Khi D lưu thông đến trước nhà số B8/14A Quốc lộ 1A, ấp 2, xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh thì bị phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần bên trái của D 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là Methamphetamine, khối lượng 98,4526 gram.

Tại bản cáo trạng số 245/CT-VKS-P1 ngày 10/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Quốc D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Đối với đối tượng Bé H và T, qua xác minh tại phòng trọ số 5 nhà trọ số C ấp N, xã BH, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh xác định có đối tượng tên Nguyễn Thanh Q (tên thường gọi là Bé H) và vợ là Đỗ Nguyễn Thu T ký hợp đồng thuê nhà thời hạn 3 năm từ ngày 01/01/2018. Lúc đầu, vợ chồng Bé H chỉ dùng căn nhà trên để chứa đồ, đến tháng 5/2020 bé H và T mới chuyển đến ở. Tuy nhiên từ 17/12/2020, vợ chồng Bé H đã bỏ đi. Các đối tượng trên cũng không cư trú tại nơi đăng ký thường trú, đi đâu không rõ. Trần Quốc D cũng không nhận dạng được Bé H và T nên cơ quan điều tra chưa có căn cứ khởi tố, truy nã.

Đối với đối tượng Hữu, do D khai không rõ nhân thân, lai lịch nên cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh để xử lý.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố nêu quan điểm luận tội:

- Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản áp dụng như nội dung bản cáo trạng.

- Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Trần Quốc D từ 17 năm đến 19 năm tù, buộc bị cáo nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng.

Luật sư bào chữa cho bị cáo nêu ý kiến:

- Thống nhất về tội danh và điều khoản áp dụng truy tố đối với bị cáo.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc bị cáo không tham gia bàn bạc vào việc mua bán ma túy mà chỉ đi giao cho các đối tượng bé H và T để nhận tiền công nên vai trò phạm tội hạn chế. Khi biết hàng bé H nói đi giao là ma túy bị cáo đã từ chối nhưng do nể nang và gia đình khó khăn (vợ bị cáo không có việc làm ổn định, đang nuôi con nhỏ) nên bị cáo đã phạm tội. Ngay sau khi bị bắt, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện ăn năn hối cải nên đề nghị tuyên phạt bị cáo mức án thấp nhất đồng thời miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, điều tra viên và kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, luật sư, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại nên các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và vụ án còn được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ khác như biên bản thu giữ vật chứng, biên bản ghi lời khai người làm chứng và các biên bản hoạt động điều tra khác có đủ cơ sở xác định: Trưa ngày 17/12/2020, Trần Quốc D nhận 01 gói ma túy loại Methamphetamine từ đối tượng bé H và T đi giao cho đối tượng Hữu tại khu vực xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh để hưởng tiền công 300.000 đồng nhưng chưa kịp giao thì bị bắt quả tang.

Với các tình tiết của vụ án đã được chứng minh tại phiên tòa, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Trần Quốc D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo gây nguy hại cho xã hội, gieo rắc nọc độc, làm tăng tệ nạn nghiện ngập ma túy, tạo tiền đề phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo tham gia mua bán ma túy, khi bị bắt quả tang thu giữ 98,4526 gram ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine. Bị cáo đã bị xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm. Do đó cần áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự để xử phạt đối với bị cáo với mức án tương xứng.

Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện ăn năn hối cải, bản thân bị cáo không trực tiếp đứng ra giao dịch mua bán mà chỉ giúp sức cho đối tượng Bé H đi giao ma túy để nhận tiền công. Hoàn cảnh gia đình có khó khăn nhất định khi bị cáo là lao động chính, hiện đang nuôi con nhỏ nên xem xét giảm cho bị cáo một mức hình phạt như lời bào chữa của luật sư là có căn cứ.

Ngoài hình phạt chính, buộc bị cáo nộp phạt bổ sung khoản tiền nhất định để nộp Ngân sách Nhà nước.

[3] Về xử lý vật chứng:

- Ma túy là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- Điện thoại di động hiệu Samsung bị cáo sử dụng liên lạc thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu Ngân sách Nhà nước.

- Xe gắn máy biển số 47T1-xxxxx, chưa xác định được chủ sở hữu, bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội nên tiếp tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng để tìm chủ sở hữu trong thời hạn nhất định, nếu không xác định được chủ sở hữu thì tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Hộ chiếu mang tên Nguyễn Thanh Q và Đỗ Nguyễn Thu T thu giữ tại phòng trọ số 5, nhà số C ấp N, xã BH, huyện BC, Thành phố Hồ Chí Minh là địa điểm Trần Quốc D chỉ điểm đối tượng bé H và T giao ma túy cho D đi giao. Tuy nhiên, quá trình điều tra chưa xác minh được các đối tượng này nên giao 02 hộ chiếu trên cho cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục quản lý và điều tra xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Quốc D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52;

điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

+ Xử phạt: Trần Quốc D 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2020.

Buộc bị cáo D nộp Ngân sách Nhà nước số tiền 5.000.000 đồng.

- Áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự

* Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 gói niêm phong số 76/2021 bên ngoài có chữ ký giám định viên Nguyễn Thanh Đ và cán bộ điều tra Trần Bảo C bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 bịch nylon màu trắng.

* Tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động màu trắng hiệu Samsung có imei: 990004896464942.

* Chuyển các vật chứng dưới đây cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh quản lý và xử lý khi điều tra làm rõ hành vi của Nguyễn Thanh Q và Đỗ Nguyễn Thu T:

+ 01 hộ chiếu số B951xxxx của Nguyễn Thanh Q.

+ 01 hộ chiếu số B951xxxx của Đỗ Nguyễn Thu T.

* Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng để tìm chủ sở hữu trong thời hạn 06 tháng, nếu không xác định được thì tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước đối với: Xe hai bánh gắn máy; nhãn hiệu: Honda; số loại: Wave; dung tích xilanh 109; biển số: 47T1-xxxxx; số khung: RLHJA3905HY193653; số máy: JA39E-0193697 (không gương, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra).

(Biên bản giao nhận tang tài vật số NK2021/291 ngày 18/5/2021 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

Bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

58
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 257/2021/HS-ST

Số hiệu:257/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về