Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 202/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 202/2023/HS-PT NGÀY 14/04/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 408/2022/TLPT- HS ngày 23-6-2022 đối với các bị cáo Chu Văn K, La Văn T, Chu Văn Kh, Đinh Minh Tr, Vũ Văn Qu do có kháng cáo của các bị cáo Chu Văn K, La Văn T, Vũ Văn Qu, Chu Văn Kh, Đinh Minh Tr đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2022/HSST ngày 12-5-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Chu Văn K, sinh ngày 04-12-1990 tại tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12. Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không. Nơi cư trú: Xóm 5, xã TT, huyện YT, tỉnh Nghệ An; chỗ ở: Ấp 5, xã AV, huyện TB, tỉnh Đồng Nai; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Tiến K, sinh năm 1966 và bà Hoàng Thị L, sinh năm 1965; gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ hai; bị cáo có vợ là bà Trần Thị Th; sinh năm 1994 và có 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 23-7-2020 và hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an Đồng Nai. Có mặt.

2. La Văn T, sinh ngày 03-4-1990 tại tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 09/12. Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không. Nơi cư trú: thôn 10, xã MX, huyện LY, tỉnh Yên Bái; chỗ ở: Ấp 5, xã AV, huyện TB, tỉnh Đồng Nai; giới tính: Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông La Văn C, sinh năm 1953 và bà Hà Thị Th, sinh năm 1955; gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ 6; bị cáo có vợ là bà Triệu Thị T, sinh năm 1991 và có 02 con, lớn nhất, sinh năm 2010 và nhỏ nhất, sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 23-7-2020 và hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an Đồng Nai. Có mặt.

3. Vũ Văn Qu, sinh ngày 12-12-1996 tại tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 7/12. Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không. Nơi cư trú: Xóm 5, xã TT, huyện YT, tỉnh Nghệ An; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Ngọc L, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1965; gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ 4 và chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt ngày 23-7-2020 và hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an Đồng Nai. Có mặt.

4. Chu Văn Kh, sinh ngày 23-11-1996 tại tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12. Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không. Nơi cư trú: Xóm 5, xã TT, huyện YT, tỉnh Nghệ An; chỗ ở: Ấp 5, xã AV, huyện TB, tỉnh Đồng Nai; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Tiến K, sinh năm 1966 và bà Hoàng Thị L, sinh năm 1965; gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ 3 và chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 23-7-2020 và hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an Đồng Nai. Có mặt.

5. Đinh Minh Tr, sinh ngày 23-01-1996 tại tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12. Đảng, chính quyền, đoàn thể: Không. Nơi cư trú: xóm BL, xã ĐT, huyện YT, tỉnh Nghệ An; chỗ ở: Xã AV, huyện TB, tỉnh Đồng Nai; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn Th, đã chết và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1973; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất và chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 23-7-2020 và hiện nay đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an Đồng Nai. Có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo:

1/ Luật sư Dương Văn O, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai và Luật sư Trần Kim H1, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, bào chữa cho bị cáo Chu Văn K, đều có mặt.

2/ Luật sư Nguyễn Đức O và Luật sư Trần Kim H1 thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, bào chữa cho bị cáo La Văn T, đều có mặt.

3/ Luật sư Nguyễn Thị T, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh và Luật sư Lê Hồng Khanh, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Phú Thọ bào chữa cho bị cáo Vũ Văn Qu, đều có mặt.

4/ Luật sư Dương Văn O và Luật sư Trương Thị Thu H, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, bào chữa cho bị cáo Chu Văn Kh, đều có mặt.

5/ Luật sư Nguyễn Thanh T và Luật sư Trương Thị Thu H, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Đinh Minh Tr, đều có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chu Văn K, La Văn T, Chu Văn Kh, Vũ Văn Qu và Đinh Minh Tr là những người không nghiện chất ma túy. Vào năm 2016, Chu Văn K làm việc tại thị trấn MX, huyện KS, tỉnh Nghệ An và có quen biết một người tên Tiến (không rõ họ địa chỉ) là đối tượng mua bán ma túy. Năm 2017, K thuê phòng trọ ở cùng với vợ con tại ấp 5, xã AV, huyện TB, tỉnh Đồng Nai và làm công nhân tại đây. Tháng 4-2020 K nghỉ làm công nhân và nảy sinh ý định mua ma túy về bán lấy tiền tiêu xài, K gọi điện thoại cho Tiến hỏi mua ma túy và được Tiến giới thiệu người phụ nữ tên Cự Y Chò ở khối 3, thị trấn MX, huyện KS, tỉnh Nghệ An có số điện thoại 0867874731 để mua ma túy. K gọi điện thoại cho Chò thì Chò giới thiệu người tên “Cậu” (không rõ họ tên địa chỉ) số điện thoại 0948390700 để liên hệ mua ma túy rồi chuyển tiền qua tài khoản số 3618205030527 - Ngân hàng Nông nghiệp phát triển nông thôn chi nhánh tỉnh Nghệ An của Cự Y Chò. Từ tháng 6-2020 đến ngày 23-7-2020, K đã 03 lần mua ma túy của “Cậu” mang vào Đồng Nai giao cho La Văn T, Đinh Minh Tr, Vũ Văn Qu, Chu Văn Kh đi bán cho những người nghiện thu lợi bất chính, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Khoảng giữa tháng 6-2020 (không nhớ ngày), Chu Văn K rủ La Văn T góp tiền mua 01 kg ma túy đá loại Methamphetamine với giá tiền 150.000.000 đồng, T đồng ý góp số tiền 20.000.000 đồng, còn K góp 130.000.000 đồng, sau đó K chuyển số tiền 150.000.000 đồng, vào tài khoản số 3618205030527 - Ngân hàng Nông nghiệp phát triển nông thôn chi nhánh tỉnh Nghệ An cho Cự Y Chò. Sau khi Chò nhận được tiền, thì “Cậu” gửi cho K 01 kg ma túy bỏ trong bao gạo theo xe khách Bắc- Nam, K nhận được ma túy thì mang về phòng trọ của T ở ấp 5, xã AV, huyện TB, tỉnh Đồng Nai, phân thành nhiều gói nhỏ rồi cất giấu trên gác xép phòng trọ của T, khi có người hỏi mua ma túy thì K kêu T mang ma túy đưa cho Đinh Minh Tr, để Tr mang đi bán cho những người nghiện gồm: 02 lần bán cho Phạm Linh Th (Mười), sinh năm:

1995; Nơi cư trú: ấp TC, xã BM, huyện TB, tỉnh Đồng Nai, mỗi lần một gói ma túy đá khối lượng khoảng 20 gam đến 50 gam vào ngày 22-6; 28-6-2020 và 01 lần bán cho tên “Ngọng” (không rõ họ tên địa chỉ) tại khu vực Khu phố 6, phường LB, thành phố Biên Hòa một gói ma túy đá khối lượng khoảng 20 gam vào ngày 22-6-2020 và bán cho tên Chung (không rõ họ tên địa chỉ). Sau đó người mua chuyển khoản cho K, hoặc Tr mang tiền về đưa Chu Văn Kh (em ruột của K được K thuê phòng trọ ở ấp 5, xã AV, huyện TB sinh sống và ở cùng phòng trọ với Tr), ghi chép sổ sách quản lý việc mua bán ma túy với Tr. Trung bình mỗi ngày, K bán được từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Tổng số tiền bán ma túy K thu được là 200.000.000 đồng, thu lợi 50.000.000 đồng, K trả tiền gốc cho T 20.000.000 đồng, chia tiền lời cho T số tiền 7.000.000 đồng, số tiền 43.000.000 đồng còn lại K tiêu xài cá nhân.

- Lần thứ hai: Khoảng đầu tháng 7-2020 (không nhớ ngày), K tiếp tục mua 1kg ma túy đá loại Methamphetamine của “Cậu” với giá tiền 150.000.000 đồng, T góp số tiền 10.000.000 đồng, K góp 140.000.000 đồng, sau đó K chuyển khoản số tiền 150.000.000 đồng, vào tài khoản số 3618205030527 - Ngân hàng Nông nghiệp phát triển nông thôn chi nhánh tỉnh Nghệ An cho Cự Y Chò. Sau khi Chò nhận được tiền thì “Cậu” gửi 01 kg ma túy đá qua xe khách vào cho K, nhận được ma túy, K mang ma túy mang về phòng trọ của T, cả hai phân thành nhiều gói nhỏ (mỗi gói khoảng 100 gam và 200 gam) và cất giấu dưới hố (lỗ) nền phòng trọ do T đào. Khi có người hỏi mua ma túy, thì K kêu T mang ma túy đưa cho Đinh Minh Tr, để Tr mang đi bán ma túy cho Phạm Linh Th (Mười) tại khu vực giáo xứ TC thuộc xã BM, huyện TB một gói ma túy đá khối lượng khoảng 20 gam và chuyển tiền vào tài khoản cho K vào ngày 19-7-2020. Sau đó Tr mang tiền về đưa cho K và Kh là người ghi chép sổ sách quản lý việc mua bán ma túy và thu chi với Tr. Trung bình mỗi ngày, K bán được từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Tổng số tiền bán ma túy thu được là 200.000.000 đồng, K trả tiền gốc cho T 10.000.000 đồng, chia tiền lời cho T số tiền 2.000.000 đồng, số tiền thu lợi 48.000.000 đồng K tiêu xài cá nhân.

- Lần thứ ba: Khoảng giữa tháng 7-2020, K gọi điện thoại cho “Cậu” đặt mua 2kg ma túy đá với giá tiền 150.000.000đ/1kg, K trả trước 150.000.000 đồng và chuyển tiền vào tài khoản của Cụ Y Chò cho “Cậu”, thì “Cậu” yêu cầu K cho người ra Nghệ An nhận ma túy. Ngày 19-7-2020, K nói Vũ Văn Qu (Chơn) ở cùng phòng trọ ấp 5, xã AV, huyện TB với Tr và Kh ra thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An nhận gói ma túy mang vào tỉnh Đồng Nai cho K thì Qu đồng ý, K chuyển vào tài khoản cho Qu số tiền 5.000.000 đồng để chi phí đi lại vận chuyển ma túy. Khoảng 12 giờ ngày 21-7-2020, Qu tới Thành phố Vinh và thông báo cho K biết. K hướng dẫn Qu đến ngã ba Quán Bánh thuộc Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An đứng đợi để nhận ma túy từ xe khách (xe đò). Khi đến đây theo hướng dẫn của K thì có một xe khách dừng lại và đưa cho Qu bao dưa leo trong bao có chứa gói ma túy. Qu nhận bao dưa và biết bên trong có ma túy như K dặn, sau đó Qu đón xe khách mang ma túy vào TB để giao cho K. Khoảng 13 giờ ngày 22-7-2020 Qu mang ma túy vào tới xã AV, huyện TB và điện thoại cho Kh ra đón rồi chở vào phòng trọ của Tr ở ấp 5, xã AV, huyện TB (Tr mới thuê ở riêng). Tại phòng trọ của Tr, sau khi đổ bao dưa leo ra thấy có 02 gói ma túy thì Kh chụp hình gửi qua ứng dụng Zalo cho K biết vì lúc đó K không có mặt tại đây. Sau đó Qu để 02 gói ma túy tại phòng của Tr.

Đến khoảng 08 giờ 30 phút ngày 23-7-2020, K từ Nha Trang - Khánh Hòa vào đến phòng trọ của K và điện thoại cho Tr mang 1 kg ma túy qua đưa cho T cất giấu, còn 1 kg ma túy mang qua phòng của Chu Văn Kh và Vũ Văn Qu (đây cũng là nơi ở trước của Tr) đưa cho K. K cùng Qu, Kh phân chia ma túy thành nhiều gói nhỏ. Số ma túy còn lại, K lấy 8 gói đưa cho Kh cất giấu trong lỗ ở góc tường phòng trọ của Kh mà Kh và Tr đào chiếc lỗ để cất giấu ma túy vào khoảng giữa tháng 7-2020 (không rõ ngày); 22 gói ma túy K mang đến phòng trọ của T đưa T cất giấu trên gác xép phòng trọ của T; 01 gói ma túy khối lượng khoảng 50gam K đưa cho Qu và 1 gói ma túy khối lượng khoảng 40gam K đưa cho Tr rồi kêu Qu và Tr mang đi bán cho người tên Chung ở phường Bình Đa, Thành phố Biên Hòa. Khoảng 10 giờ ngày 23-7-2020, Kh đưa xe mô tô biển số 47C1- 236.94 cho Qu sử dụng đi bán ma túy, Tr và Qu trên đường đi bán ma túy cho Chung (không rõ họ tên địa chỉ), nhưng chưa bán được thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai phát hiện bắt quả tang thu giữ của Đinh Minh Tr 04 gói tinh thể là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 38,1353gam (thu trong cốp xe của Tr); 01 xe máy biển số 38X1- 018.58; 02 điện thoại di động (01 hiệu Iphone số thuê bao: 0382507956 và 01 hiệu Nokia số thuê bao 0879823195).

Thu giữ của Vũ Văn Qu 01 gói tinh thể là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 49,8905gam (thu trong cốp xe của Qu); 01 xe mô tô biển số 47C1- 236.94; 01 điện thoại di động hiệu Huawei số thuê bao: 0339692033 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe máy biển số: 47C1- 236.94 Tổng số tiền Chu Văn K thu lợi bất chính là 91.000.000 đồng; La Văn T thu lợi bất chính là 9.000.000 đồng.

Khám xét tại phòng trọ của La Văn T tại nhà không số thuộc ấp 5, xã AV, huyện TB thu giữ: 01 gói tinh thể là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 1.000,0507gam được cất giấu dưới hố đất nền nhà cùng 22 gói tinh thể là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 629,8792gam; 30 túi nilong (loại túi zip); 01 cân tiểu ly điện tử được cất trên gác xép; 01 ĐTDĐ hiệu Oppo số thuê bao 0792327416 và số 0987105844; 01 chứng minh nhân dân tên La Văn T; 02 muỗng inox.

Khám xét phòng trọ của Chu Văn Kh tại nhà không số thuộc ấp 5, xã AV, huyện TB, thu giữ: 08 (tám) gói tinh thể là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 126,2698gam giấu trong hố dưới nền phòng trọ của Kh; 02 điện thoại di động (01 điện thoại hiệu Iphone số thuê bao 0369541397 và 01 điện thoại hiệu Nokia số thuê bao: 0976679138); 01 máy tính bảng; 01 quyển vở học sinh ghi chép thông tin mua bán ma túy; 5.250.000 đồng.

Khám xét phòng trọ của Chu Văn K tại nhà số 61, ấp 5, xã AV, huyện TB, thu giữ: 02 điện thoại di động (01 điện thoại hiệu Samsung số thuê bao:

0968408946 và 01 điện thoại hiệu Itel số thuê bao: 0867840946); 01 xe máy biển số 37P1- 458.17; 01 hộ chiếu tên Chu Văn K; 01 cuốn tập học sinh ghi chép thông tin chuyển tiền mua bán ma túy và 01 thẻ ATM Vietcombank tên Chu Văn K.

Vật chứng vụ án: Đã được liệt kê tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản theo phiếu nhập số NK21/081 ngày 18-5-2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai (Bút lục số 457). Bao gồm:

- Tịch thu tiêu hủy tất cả số ma túy còn lại đã được niêm phong sau giám định (số 1949/KLGĐ-PC09 ngày 29-7-2020; số 1500/KLGĐ-PC09 ngày 29-7- 2020; số 1501/KLGĐ-PC09 ngày 29-7-2020; số 1502/KLGĐ-PC09 ngày 29-7- 2020) cùng 02 muỗng inox, 30 gói nilong không chứa gì.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 02 điện thoại di động (01 hiệu Iphone số thuê bao: 0382507956 và 01 hiệu Nokia số thuê bao 0879823195) thu của Tr;

01 điện thoại di động hiệu Huawei số thuê bao: 0339692033 thu của Qu; 02 điện thoại di động (01 điện thoại hiệu Samsung số thuê bao: 0968408946 và 01 điện thoại hiệu Itel số thuê bao: 0867840946) thu của K; 01 ĐTDĐ hiệu Oppo số thuê bao 0792327416 và số 0987105844 và 01 cân tiểu ly thu của T; 02 điện thoại di động (01 điện thoại hiệu Iphone số thuê bao 0369541397 và 01 điện thoại hiệu Nokia số thuê bao: 0976679138) thu của Kh, là phương tiện mà các bị can sử dụng để hoạt động mua bán ma túy.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc xe mô tô biển số 37P1-458.17 thu của K do K đứng tên chủ sở hữu và K đã dùng chiếc xe để thực hiện việc mua bán trái phép chất ma túy.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền mua bán trái phép chất ma túy của Chu Văn Kh là 5.250.000 đồng.

- Trả lại các bị cáo: 01 chứng minh nhân dân tên La Văn T; 01 hộ chiếu và 01 thẻ ATM tên Chu Văn K; 01 máy tính bảng hiệu SamSung màu hồng của Vũ Văn Qu (Vật chứng đã được giao nhận tại Biên bản NK21/081 ngày 18-5-2021 và giấy nộp tiền ngày 18-5-2021 Cục thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai).

- Buộc các bị cáo phải nộp lại tiền thu lợi bất chính: Bị cáo Chu Văn K số tiền 91.000.000 đồng, bị cáo La Văn T số tiền 9.000.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 63/2022/HS-ST ngày 12-5-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định:

Căn cứ vào điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 52, Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Chu Văn K mức án tử hình, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23-7-2020.

Xử phạt bị cáo Vũ Văn Qu mức án tử hình, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23-7-2020.

Xử phạt bị cáo La Văn T mức án tử hình, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23-7-2020.

Xử phạt bị cáo Đinh Minh Tr mức án tù chung thân, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23-7-2020.

Xử phạt bị cáo Chu Văn Kh mức án tù chung thân, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23-7-2020.

Ngoài ra, bản án còn tuyên án phí và quyền kháng cáo cho các bị cáo.

Từ ngày 16 đến 18-5-2022 các bị cáo Đinh Minh Tr, Chu Văn K, La Văn T, Chu Văn Kh, Vũ Văn Qu lần lượt kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Chu Văn K ban đầu kêu oan cho rằng bị cáo không phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, nhưng lời nói sau cùng bị cáo lại đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Luật sư bào chữa cho bị cáo K cho rằng Chu Văn K chỉ phạm đối với số lượng ma túy hơn 1,8 kg (lần thứ 3), chứ không phạm tội đối với hành vi mua bán trái phép ma tuy 02 lần trước như bản án sơ thẩm đề cập và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo Chu Văn K. Các bị cáo La Văn T, Vũ Văn Qu, Chu Văn Kh, Đinh Minh Tr và các luật sư bào chữa cho các bị cáo này thống nhất với tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã nhận định và đề nghị giảm nhẹ một phần hình phạt đối với các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau: Đối với kháng cáo của Chu Văn K, La Văn T, Chu Văn Kh, Đinh Minh Tr không có cơ sở chấp nhận vì bản án sơ thẩm đã xử phạt mức án phù hợp với hành vi phạm tội của các bị cáo. Bị cáo Qu chỉ là người giúp sức tích cực cho Chu Văn K trong việc đi lấy ma túy từ Nghệ An vào Đồng nai theo sự phân công của K. Sau đó, bị cáo tham gia phân từng gói và cùng Tr đem đi bán nhưng chưa bán được thì bị bắt quả tang. Bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải và cung cấp chứng cứ thể hiện cha bị cáo là người có công với cách mạng, được nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công và Huân Chương bảo vệ tổ quốc hạng nhì, hiện hoàn cảnh gia đình của bị cáo khó khăn là T tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên mức án tử hình là quá nặng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm xuống mức án chung thân. Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355, Điều 356, 357 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận đơn kháng cáo của Chu Văn K, La Văn T, Chu Văn Kh, Đinh Minh Tr. Chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Vũ Văn Qu, sửa bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo của các bị cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo Chu Văn K, La Văn T, Vũ Văn Qu, Chu Văn Kh, Đinh Minh Tr được làm trong thời hạn luật định. Do đó, đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Trên cơ sở tài liệu, chứng cứ, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa, có đủ cơ sở xác định: Trong một thời gian ngắn từ tháng 6-2020 đến ngày 23-7-2020, Chu Văn K đã 03 lần mua ma túy thông qua xe khách, cùng La Văn T, Đinh Minh Tr, Vũ Văn Qu, Chu Văn Kh thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy với số lượng đặc biệt lớn. Cả 03 lần đều chuyển khoản cho một người tên Cự Y Chò và được người tên “Cậu” chuyển ma túy cho K, đó là: Lần 1 mua 01 kg ma túy đá Methamphetamine với giá 150.000.000 đồng, trong đó T góp 20.000.000 đồng bán được 200.000.000 đồng thu lợi 50.000.000 đồng; Lần hai mua 01 kg đem về bán được 200.000.000 đồng, số tiền của T góp 10.000.000 đồng, thu lợi 50.000.000 đồng. Lần 3: K đặt mua 02 kg ma túy và phân công Qu ra thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An trực tiếp nhận ma túy mang về tỉnh Đồng Nai cho K. Sau đó, K cùng Qu, Kh phân chia ma túy thành nhiều gói nhỏ để bán dần cho con nghiện, mục đích bán kiếm lời bất chính. Đồng thời, K phân công Tr mang 1 kg ma túy đưa cho T cất giấu, còn 01 kg ma túy K cùng Qu, Kh phân chia ma túy thành nhiều gói nhỏ. Số ma túy còn lại, K đưa cho Kh và T cất giấu tại phòng trọ của mình; 01 gói 50gam ma túy K đưa cho Qu và 1 gói ma túy 40gam K đưa cho Tr đem đi bán nhưng chưa bán được thì bị quả tang. Thu giữ của Đinh Minh Tr 04 gói với 38,1353gam và của Vũ Văn Qu 01 gói 49,8905gam loại Methamphetamine. Như vậy, các bị cáo Chu Văn K, La Văn T, Vũ Văn Qu, Chu Văn Kh, Đinh Minh Tr có đầy đủ nhận thức và điều khiển hành vi nhưng cố T phạm tội nên phải chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và kết án các bị cáo Chu Văn K, La Văn T, Vũ Văn Qu, Chu Văn Kh, Đinh Minh Tr về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm về ma tuý và các tệ nạn xã hội khác; gây mất trật tự trị an xã hội. Với động cơ tư lợi bất chính, muốn có tiền tiêu xài nhưng lười lao động, các bị cáo đã bất chấp sự nghiêm cấm của pháp luật thực hiện hành vi mua bán ma túy với khối lượng đặc biệt lớn. Xét về hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của mỗi bị cáo trong vụ án thì có khác nhau:

Đối với bị cáo Chu Văn K và La Văn T: Cả 2 bị cáo thực hiện hành vi cùng góp tiền 02 lần mua ma túy mặc dù số tiền chênh lệch nhau. Bị cáo K là người chủ mưu, cầm đầu, điều hành toàn bộ hoạt động mua bán ma túy. Trong khi phạm tội, bị cáo sử dụng điện thoại chuyên dùng vào việc mua bán ma túy, cho ma túy bỏ trong “bao gạo”, “bao dưa leo” thông qua xe khách Bắc - Nam, xe đò để vận chuyển nhằm che giấu hành vi phạm tội của mình. Ngoài hành vi trên K, La Văn T còn cùng với K thực hiện hành vi chia nhỏ ma túy, T cất giấu ma túy trên gác xếp, chôn dưới nền nhà, đưa ma túy cho bị cáo Tr đem bán. Các bị cáo Chu Văn K và La Văn T đều phạm tội thuộc trường hợp “phạm tội có tổ chức”, đây là T tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm a khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về T tiết giảm nhẹ, bị cáo T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo K ban đâu khai không trung thực nhưng sau cũng thừa nhận hành vi phạm tội. Quá trình tố tụng tại cấp phúc thẩm, bị cáo T có ông bà nội tham gia kháng chiến chống chống Pháp, chống Mỹ và gia đình hoàn cảnh khó khăn thuộc T tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên, các bị cáo phạm tội đối với số lượng ma túy là đặc biệt lớn nên tòa án cấp sơ thẩm xử phạt mức án cao nhất tử hình là tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo Chu Văn K, và La Văn T.

Đối với bị cáo Vũ Văn Qu: Là người giúp sức tích cực cho bị cáo K khi đem đi bán ma túy cùng Tr cho người tên Chung theo yêu cầu của K với mục đích được K trả công. Vũ Văn Qu cho rằng khi K phân công bị cáo đi tỉnh Nghệ An lấy ma túy đã không nói rõ là bao nhiêu ma túy, chỉ khi đổ bao tải đựng dưa leo ra Qu mới biết có 02 kg ma túy và Qu ra về ngay sau khi để lại 02 gói ma túy tại phòng của Tr. Điều này phù hợp lời khai của bị cáo K khi cho rằng bản thân bị cáo Qu không hề biết trước số lượng ma túy đem về tỉnh Đồng Nai để các bị cáo cùng nhau phân từng gói nhỏ bán cho con nghiện. Về T tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo Qu phạm tội với 01 T tiết tăng nặng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự như K và T. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, không có tiền án, tiền sự, tích cực hợp tác với cơ quan điều tra nhanh chóng kết thúc vụ án. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Qu xuất trình tài liệu chứng cứ thể hiện: Cha bị cáo được tặng thưởng Hạng ba vì đã có thành tích phục vụ trong Qu đội nhân dân Việt Nam. Bị cáo còn có ông bà nội, ông bà ngoại là cán bộ trong Qu đội tham gia 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất, hạng ba - là những T tiết giảm nhẹ mới quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Như vậy, với vai trò của bị cáo chỉ là người giúp sức và có nhiều T tiết giảm nhẹ nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt Vũ Văn Qu mức án tử hình là có phần nghiêm khắc. Do đó, có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo và cần thiết áp dụng Điều 39 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo mức án tù chung thân là phù hợp.

Đối với bị cáo Đinh Minh Tr, Chu Văn Kh: Các bị cáo tham gia với vai trò cũng là người giúp sức cho các bị cáo K và T. Tr được giao đem ma túy đi bán cho các con nghiện. Chu Văn Kh được phân công ghi chép sổ sách, theo dõi việc mua bán ma túy và cất giấu ma túy. Đinh Minh Tr và Chu Văn Kh cũng có 01 T tiết tăng nặng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và T tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự như cấp sơ thẩm đã áp dụng là chính xác. Mặc dù, bị cáo Tr cung cấp chứng cứ mới là có xác nhận của cơ quan có thẩm quyền ở địa phương chứng thực hoàn cảnh gia đình bị cáo hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, Tòa cấp sơ thẩm xử phạt Đinh Minh Tr, Chu Văn Kh với mức án tù chung thân là tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo. Do vậy, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ của Đinh Minh Tr, Chu Văn Kh.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ để chấp nhận đơn kháng cáo của Chu Văn K, La Văn T, Chu Văn Kh, Đinh Minh Tr. Chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Vũ Văn Qu, Luật sư bào chữa cho Vũ Văn Qu và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Sửa bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm:

Đơn kháng cáo của Chu Văn K, La Văn T, Chu Văn Kh, Đinh Minh Tr không được chấp nhận nên phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Vũ Văn Qu được chấp nhận đơn kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều Điều 355, Điều 356 và Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 21, điểm a, h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án,

I. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Chu Văn K, La Văn T, Chu Văn Kh, Đinh Minh Tr. Chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Vũ Văn Qu. Sửa bản án sơ thẩm hình sự số 63/2022/HS-ST ngày 12-5-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

Tuyên xử:

Áp dụng điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 52, Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xử phạt bị cáo Chu Văn K mức án tử hình về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23-7-2020.

- Xử phạt bị cáo La Văn T mức án tử hình về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23-7-2020.

- Xử phạt bị cáo Vũ Văn Qu mức án tù chung thân, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23-7-2020.

- Xử phạt bị cáo Đinh Minh Tr mức án tù chung thân về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23-7-2020.

- Xử phạt bị cáo Chu Văn Kh mức án tù chung thân về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23-7-2020.

Tiếp tục tạm giam các bị cáo Chu Văn K, La Văn T, Chu Văn Kh, Đinh Minh Tr, Vũ Văn Qu để đảm bảo Thi hành án.

II. Về án phí hình sự phúc thẩm:

Các bị cáo Chu Văn K, La Văn T, Chu Văn Kh, Đinh Minh Tr mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bị cáo Vũ Văn Qu không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày thời hạn hết kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày tuyên án, người bị kết án Chu Văn K, La Văn T được gửi đơn lên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xin ân giảm án Tử hình.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (14-4-2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 202/2023/HS-PT

Số hiệu:202/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về