Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 236/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 236/2023/HS-PT NGÀY 25/04/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 4 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa trực tuyến xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 140/2023/TLPT-HS ngày 15/02/2023 đối với bị cáo Phạm Sĩ N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2023/HS-ST ngày 05/01/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo: Phạm Sĩ N, sinh năm 1978 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: Số 282/52/9 Đường BHN, Phường 2, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở: Phòng số 1 tầng trệt, nhà cho thuê số 474/69 Đường NTP, Phường 9, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Quang T và bà Chiêm Thị Hồng C; có vợ và 02 con; tiền án: Tại Bản án số 330/2013/HSST ngày 25/10/2013 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã xử phạt 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 17/01/2020 bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù. Bị bắt, tạm giam từ ngày 11/10/2021, có mặt.

Ngoài ra còn có bị cáo Lê Thành T không có kháng cáo và không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 19 giờ ngày 11/10/2021, tại trước nhà số 968/18 Đường ĐBP, Phường 22, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận B phát hiện và bắt quả tang Lê Thành T điều khiển xe máy biển số 59S3-110.18 có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy, kiểm tra trong người Lê Thành T đã thu giữ 01 gói thuốc là hiệu Jet bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 49,9679 gam loại Methamphetamin.

Mở rộng điều tra, Lê Thành T khai mua ma túy của Phạm Sĩ N tại nhà số 474/69 Đường NTP, Phường 9, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Đến 22 giờ 30 phút cùng ngày 11/10/2021, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận B kiểm tra trên xe máy biển số 59D2-319.01 của Phạm Sĩ N có túi vải màu đen bên trong có 03 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn có khối lượng 197,75 gam loại Methamphetamin.

Khám xét chỗ ở của Phạm Sĩ N tại phòng 1 tầng trệt nhà số 474/69 Đường NTP, Phường 9, Quận 10 thu giữ 01 cân điện tử, 01 bộ dụng cụ ma túy và 30 gói nylon. Khám xét nơi ở của Lê Thành T tại số 60/26A Đường VK, Phường 3, quận B thu giữ 02 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng là 34,3097 gam loại Methamphetamin, 01 cân điện tử, 02 đoạn ống hút, 01 kéo, 01 hộp quẹt, 10 gói nylon.

Tất cả ma túy thu giữ của Lê Thành T và Phạm Sĩ N được giám định tại Kết luận giám định số 5509/KLGĐ-MT và Kết luận giám định số 5510/KLGĐ-MT cùng ngày 18/10/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Quá trình điều tra, Phạm Sĩ N đã khai nhận: Phạm Sĩ N mua ma túy của đối tượng tên Na (không rõ lai lịch) để đem bán lại cho Lê Thành T 02 lần: Lần 1 vào ngày 05/10/2021 Phạm Sĩ N mua của đối tượng Na 100 gam ma túy đá với giá 30.000.000 đồng, Phạm Sĩ N trả cho Na 18.000.000 đồng, còn nợ lại 12.000.000 đồng. Sau đó Phạm Sĩ N đem về cất giữ tại chỗ ở của Phạm Sĩ N tại phòng 1 tầng trệt số nhà 474/69. Đến ngày 08/10/2021 Phạm Sĩ N đem bán cho Lê Thành T 50 gam ma túy với giá 20.000.000 đồng. Lần 2 vào ngày 08/10/2021 Phạm Sĩ N đem trả tiền mua ma túy cho đối tượng Na và đối tượng Na tiếp tục giao cho Phạm Sĩ N 03 gói ma túy đá với khối lượng khoảng 160 gam để bán, Phạm Sĩ N đem về cất tại chỗ ở của Phạm Sĩ N tại phòng 1 tầng trệt số nhà 474/69. Ngày 11/10/2021 Phạm Sĩ N tiếp tục bán cho Lê Thành T 50 gam ma túy đá. Sau khi Lê Thành T mua ma túy của Phạm Sĩ N và trên đường đi bán ma túy cho khách thì Lê Thành T bị phát hiện và bắt quả tang vào lúc 19 giờ 30 phút tại trước nhà số 968 Đường ĐBP, Phường 22, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Lê Thành T khai nhận: Tháng 12 năm 2020 Lê Thành T có mua ma túy của đối tượng tên Phi (Không rõ lai lịch) 25 gam ma túy đá, sau đó phân chia bán cho khách còn lại khoảng 9 gam ma túy cất giữ tại nơi ở tại số 60/26A Đường VK, Phường 3, quận B. Đến ngày 08/10/2021 Lê Thành T mua của Phạm Sĩ N 50 gam ma túy đá 20.000.000 đồng, sau đó Lê Thành T đem bán cho một phụ nữ không rõ lai lịch 25 gam, còn lại 25 gam đem về cất tại chỗ ở tại số 60/26A Đường VK, Phường 3, quận B. Ngày 11/10/2021 Lê Thành T tiếp tục mua của Phạm Sĩ N 50 gam ma túy đá 18.000.000 đồng, sau đó Lê Thành T điều khiển xe máy đi bán ma túy thì bị Công an phát hiện và thu giữ ma túy. Khi Công an khám xét chỗ ở của Lê Thành T đã thu giữ 02 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng là 34,3097 gam loại Methamphetamin.

Tại Bản cáo trạng số 576/CT-VKS-P1 ngày 16/11/2020 Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Phạm Sĩ N, Lê Thành T về “Tội mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đối với đối tượng Na và Phi không rõ lai lịch nên chưa có cơ sở để xử lý trong cùng vụ án.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 06/2023/HS-ST ngày 05/01/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Phạm Sĩ N tù Chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 11/10/2021.

Phạt bổ sung bị cáo Phạm Sĩ N số tiền 20.000.000 đồng để nộp ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn Quyết định về tội danh, hình phạt đối với bị cáo Lê Thành T; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.

- Ngày 10/01/2023 bị cáo Phạm Sĩ N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Phạm Sĩ N khai nhận bản án sơ thẩm kết tội bị cáo phạm tội mua bán trái phép chất ma túy là không oan. Tuy nhiên bản án sơ thẩm xử phạt quá nặng, bị cáo có con còn nhỏ, hoàn cảnh gia đình khó khăn và bị cáo là lao động chính trong gia đình nên xin được giảm nhẹ một phần hình phạt để có cơ hội trở về với gia đình.

Đại diện Viện Kiểm sát phát biểu quan điểm: Đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo làm trong hạn luật định nên đủ điều kiện để xem xét theo trình tự phúc thẩm. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, nhận thấy cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự và áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ hình phạt như bản án đã tuyên là phù hợp với quy định của pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nên đề nghị Hội đồng xét xử bác đơn kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư Nguyễn Bá T bào chữa cho bị cáo có ý kiến: Tòa cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng. Tuy nhiên quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Sĩ N đảm bảo đúng hình thức và trong thời hạn luật định, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Lời khai của bị cáo Phạm Sĩ N tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, lời khai người làm chứng, bản kết luận giám định cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 19 giờ ngày 11/10/2021, tại trước nhà số 968/18 Đường ĐBP, Phường 22, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh tổ công tác của đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận B phát hiện và bắt quả tang Lê Thành T điều khiển xe máy biển số 59S3- 110.18 có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy ở thể rắn, có khối lượng 49,9679 gam loại Methamphetamin. Lê Thành T khai mua ma túy của Phạm Sĩ N tại số 474/69 Đường NTP, Phường 9, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Đến 22 giờ 30 phút cùng ngày 11/10/2021 tổ công tác Đội điều tra kiểm tra xe máy biển số 59D2- 319.01 của Phạm Sĩ N phát hiện và thu giữ ma túy ở thể rắn có khối lượng 197,75 gam loại Methamphetamin. Khám xét chỗ ở của Phạm Sĩ N không thu giữ được ma túy. Khám xét nơi ở của Lê Thành T tại số 60/26A Đường VK, Phường 3, quận B thu giữ ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng là 34,3097 gam loại Methamphetamin. Quá trình điều tra Phạm Sĩ N và Lê Thành T còn khai nhận ngày 08/10/2021 Phạm Sĩ N đã bán cho Lê Thành T 50 gam ma túy ở thể rắn để Lê Thành T bán lại cho người sử dụng ma túy. Bị cáo Phạm Sĩ N phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán ma túy trái phép với tổng số lượng 297,7179 gam Methamphetamin. Tất cả số ma túy thu giữ của bị cáo Phạm Sĩ N và Lê Thành T đã được giám định tại Kết luận giám định số: 5509/KLGĐ-MT; số 5510/KLGĐ-MT ngày 18/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

Do đó bản án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Phạm Sĩ N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoạt động của Nhà nước trong việc quản lý và kiểm soát ma túy đã gây tác hại rất xấu đến trật tự trị an, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác nên cần phải xử phạt nghiêm khắc.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như án sơ thẩm đã tuyên, không oan nhưng do bị cáo có con còn nhỏ, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình nên xin giảm nhẹ một phần hình phạt.

Xét nhân thân bị cáo đã có một tiền án về tội mua bán trái phép chất ma túy, sau khi chấp hành xong hình phạt tù, bị cáo Phạm Sĩ N tiếp tục phạm tội mua bán trái phép chất ma túy với khối lượng rất lớn.

Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự và áp dụng mức hình phạt tù không thời hạn đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Sĩ N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ mới theo quy định của pháp luật, nên không có căn cứ giảm hình phạt theo yêu cầu kháng cáo bị cáo và lời đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị bác đơn kháng cáo của bị cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm là phù hợp.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Phạm Sĩ N phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về tội danh, hình phạt đối bị cáo Lê Thành T; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, 356 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Sĩ N. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 06/2023/HS-ST ngày 05/01/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về hình phạt đối với bị cáo Phạm Sĩ N.

2. Áp dụng điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, g khoản 1 Điều 52; Điều 39 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Phạm Sĩ N tù Chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày 11/10/2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo Phạm Sĩ N để đảm bảo thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo Phạm Sĩ N số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) để sung công quỹ nhà nước.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phạm Sĩ N phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối bị cáo Lê Thành T; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

624
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 236/2023/HS-PT

Số hiệu:236/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về