Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 193/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 193/2023/HS-PT NGÀY 12/04/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 113/2023/TLPT-HS ngày 09 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Lê Văn T, Phạm Phú Q do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 610/2022/HS-ST ngày 27 tháng 12 năm 2022 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Lê Văn T; giới tính: Nam; sinh năm 1974; tại: tỉnh Long An; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Thu gom rác; trình độ học vấn: Không biết chữ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp R, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An; chỗ ở: 80/28/145 đường D, Phường 5, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; con ông Lê Văn Đ (chết) và bà Ngô Thị S, sinh năm 1948; có vợ và 01 con sinh năm 1996; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2021 (Có mặt).

2. Phạm Phú Q; giới tính: Nam; sinh năm 1977; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 4/12; nơi cư trú: 353 đường B, Phường 13, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; con ông Phạm Văn P (chết) và bà Hồ Thị U; có vợ và 01 con sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2021 (Có mặt).

Người bào chữa cho các bị cáo:

1. Ông Đỗ Hải Bình, Luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa theo chỉ định cho bị cáo T (có mặt).

2. Ông Trịnh Bá Thân, Luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Q (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 18h30’ ngày 12/6/2021, tại khu vực thang máy chung cư Felix Homes (địa chỉ: số 44 Nguyễn Văn Dung, Phường 6, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh), Tổ công tác thuộc Đội 4 Phòng Cảnh sát điều tra phạm về ma túy, Công an Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với các đơn vị. gồm: Phòng 5 Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Bộ Công an; Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Bình Thạnh; Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 12 và Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Gò Vấp, tiến hành kiểm tra và phát hiện Cao Thị Thương đang ôm 01 thùng giấy ghi chữ “VINAMILK”, bên trong có 03 gói nylon ghi chữ “GUANYINWANG” chứa 03 gói nylon ghi chữ “A” có chứa tinh thể không màu (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2.995,83 gam loại Methamphetamine và 11 gói sữa tươi nhãn hiệu Vinamilk). Thương khai đây là thùng sữa mà Trần Thị Kim nhờ Thương đi xuống trước cổng chung cư Felix Homes gặp Lê Văn T nhận giúp, Thương không biết bên trong có chứa ma túy.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ thu thập được, vào lúc 20h00’ cùng ngày, Tổ công tác tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Thương và Trần Thị Kim tại căn hộ số F11.05 chung cư Felix Homes: Kết quả khám xét tại phòng ngủ của Thương không thu giữ gì liên quan đến ma túy. Lúc này, Kim đang ở tại phòng ngủ đầu tiên bên trái hướng từ cửa chính đi vào và tự nguyện lấy từ ngăn kéo dưới giường ngủ 11 gói nylon chứa tinh thể không màu (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 707,0326 gam, loại MA); 09 gói nylon và 01 hộp giấy carton được quấn băng keo màu xanh ghi chữ “HÀNG DỄ VỠ”, bên trong có chứa chất bột màu trắng (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 502,08 gam, loại Heroine); 20 gói nylon màu trắng rỗng và 02 cân điện tử nên Công an tiến hành bắt người phạm tội quả tang đối với Kim. Tiếp tục khám xét khẩn cấp phòng ngủ của Kim tại căn hộ trên, thu giữ thêm: 01 gói giấy trắng chứa 03 viên nén màu xanh lá cây (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,4319 gam, loại MA, MDMA và Ketamine); 01 gói giấy trắng chứa 03 viên nén màu xanh tím (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,4827 gam loại MDMA); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 cân điện tử hiệu POCKET SCALE.

Kim khai số ma túy nêu trên là của Kim mua của Lê Văn T và đối tượng tên Dũng (không rõ lai lịch) để bán lại cho người nghiện kiếm lời. Ngoài ra, Kim còn thuê Nguyễn Thanh Phong đi bán ma túy cho khách.

Mở rộng điều tra, đến lúc 19h30’ cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện Lê Văn T đang điều khiển xe gắn máy biển số 59S3-489.74 trên đường Nguyễn Văn Dung, Phường 6, quận Gò Vấp nên mời T về trụ sở Công an Phường 6, quận Gò Vấp làm việc. Quá trình làm việc, T khai nhận trước đó vào khoảng 18h20’ cùng ngày, T và Phạm Phú Q đến trước khu vực chung cư Felix Homes bán cho Trần Thị Kim 03kg ma túy loại MA (đựng trong 01 thùng sữa), với giá 645.000.000 đồng, Kim nhờ Thương trực tiếp gặp T và Q để nhận giúp ma túy. Kim đã chuyển trước số tiền 600.000.000 đồng tiền mua ma túy vào tài khoản số 0071001051856 tại ngân hàng Vietcombank do Lê Thị Cẩm Nhung (con ruột T) làm chủ tài khoản. Ngoài ra, T khai còn đang thuê Nguyễn Thị Phượng cất giữ giúp 03kg ma túy loại MA. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Lệnh và tiến hành bắt người bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với T.

Cùng lúc 19h30’ cùng ngày, tại trước phòng trọ số 10 - nhà số 80/28/145 Dương Quảng Hàm, Phường 5, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, Tổ công tác tiếp tục phối hợp với Công an Phường 5, quận Gò Vấp phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thị Phượng đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Lúc này, Phượng đang cầm 01 gói nylon màu trắng đựng 03 gói nylon màu vàng ghi chữ “GUANYINWANG”, bên trong chứa tinh thể không màu (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2.994,16 gam, loại MA). Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phượng không phát hiện thu giữ gì liên quan đến ma túy. Phượng khai số ma túy trên là của Lê Văn T đưa cho Phượng cất giấu để được T trả công bằng tiền nên Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phượng.

Cùng lúc 19h30’ cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra phát hiện Phạm Phú Q đang điều khiển xe gắn máy biển số 59P1-455.00 trên đường Bình Lợi, Phường 13, quận Bình Thạnh nên mời Q về trụ sở Công an Phường 13, quận Bình Thạnh làm việc. Tại đây, Q khai nhận đã phụ giúp T mua bán trái phép chất ma túy như đã nêu trên. Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Q tại địa chỉ số 353 đường Bình Lợi, Phường 13, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh không thu giữ gì liên quan đến ma túy. Cơ quan điều tra đã tiến hành bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Phạm Phú Q.

Vào lúc 00 giờ 30 phút ngày 13/6/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của T, Phan Thị Bạch Huệ (vợ của T) và Lê Thị Cẩm Nhung (con của T) tại địa chỉ nhà số 80/28/27 Dương Quảng Hàm, Phường 5, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, thu giữ: số tiền 179.500.000 đồng và không thu giữ gì liên quan đến ma túy.

Ngày 15/6/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Lệnh phong tỏa đối với số tiền 637.091.076 đồng trong tài khoản số 0071001051856 tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) - Chi nhánh Đông Sài Gòn của Lê Thị Cẩm Nhung để điều tra làm rõ số tiền có liên quan đến hoạt động mua bán ma túy của T.

Tiếp tục mở rộng điều tra, đến 20h30’ cùng ngày, Tổ công tác phát hiện Nguyễn Thanh Phong đang điều khiển xe gắn máy biển số 59V3 - 380.41 lưu thông trên đường Lê Đức Thọ, Phường 6, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh nên mời Phong về trụ sở Công an Phường 6, quận Gò Vấp làm việc. Phong khai nhận đã tham gia phụ giúp Kim mua bán trái phép chất ma túy để được trả công phù hợp lời khai nêu trên của Trần Thị Kim nên tiến hành bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Phong. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phong tại phòng trọ số 5, nhà số 1264/19/1 Lê Đức Thọ, Phường 13, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, thu giữ: 01 cân điện tử; 01 quẹt gas; 01 căn cước công dân và 01 hợp đồng thuê phòng trọ mang tên Nguyễn Thanh Phong, cùng nhiều gói nylon không chứa gì.

Tất cả số ma túy thu giữ của Kim, T, Q và Phượng đã được giám định kết quả thể hiện tại các bản Kết luận giám định số 3931, 3932, 3933 và 3934/KLGĐ-MT ngày 21/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh (bút lục số 124-127).

Quá trình điều tra, xác định:

+ Lê Văn T khai nhận: Do hoàn cảnh gia đình khó khăn và cần tiền tiêu xài nên T nảy sinh ý định mua bán ma túy để kiếm lời. Ngày 31/5/2021, T mua của Thái (không rõ lai lịch) 10kg ma túy loại MA với giá 1.800.000.000 đồng (180.000.000 đồng/01kg) và thỏa T sau khi bán ma túy cho khách xong T sẽ trả tiền sau, Thái đồng ý. Ngày 09/6/2021, Thái điện thoại cho T để giao 10kg ma túy đá đã đặt mua trước đó. Sau đó, T rủ Phạm Phú Q phụ giúp T đi mua bán ma túy, T sẽ trả tiền công cho Q 10.000.000 đồng/01 lần giao dịch thành công, Q đồng ý. Khoảng 15h00’cùng ngày, T điều khiển xe máy biển số 59S3-489.74 chở Q đến một quán cà phê tại khu vực Khu chế xuất Linh Trung 2, thành phố Thủ Đức gặp một người đàn ông (là người của Thái chỉ đạo đến) để nhận 01 bao tải, bên trong có 10kg ma túy loại MA đem về nơi ở của Q tại địa chỉ nhà số 353 Bình Lợi, Phường 13, quận Bình Thạnh cất giấu để bán cho khách, còn T đi về nhà.

Từ ngày 10/6/2021 đến ngày 12/6/2021, T đã bán ma túy cho Trần Thị Kim được 03 lần, cụ thể như sau:

- Lần thứ 1: Khoảng 12h00’ ngày 10/6/2021, T và Q bán cho Kim 02kg ma túy loại MA với giá 430.000.000 đồng, địa điểm giao dịch tại khu vực chợ Bình Phước, thành phố Thủ Đức; Kim trả trước cho T 360.000.000 đồng, còn nợ lại 70.000.000 đồng sẽ trả sau. Lần này, T đã trả công cho Q 10.000.000 đồng.

- Lần thứ 2: Vào khoảng 17h00’ ngày 11/6/2021, T điện thoại chỉ đạo cho Q lấy 02kg ma túy loại MA bỏ vào thùng giấy đem đến khu vực cây xăng gần ngã tư đường Nguyễn Oanh và Nguyễn Văn Dung, Phường 6, quận Gò Vấp bán cho Kim giá 430.000.000 đồng; Kim trả trước cho T 360.000.000 đồng, còn nợ lại 70.000.000 đồng, T trả công cho Q 10.000.000 đồng và trả trước cho Thái 700.000.000 đồng tiền mua 10kg ma túy trước đó.

- Lần thứ 3: Khoảng 10h00’ ngày 12/6/2021, Kim đặt mua của T 03kg ma túy đá với giá 645.000.000 đồng, thanh toán bằng cách chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng. Do không có tài khoản ngân hàng nên T hỏi mượn của Lê Thị Cẩm Nhung (con gái T) tài khoản số 0071001051856 tại Vietcombank để Kim chuyển khoản trả trước cho T 600.000.000 đồng, còn nợ lại 45.000.000 đồng; nhưng T không nói cho Nhung biết là tiền mua bán ma túy. Lúc này, T chỉ đạo cho Q mang 06kg ma túy đá còn lại đến nhà giao cho T, rồi cả hai cùng đem 03 kg ma túy đá được để trong thùng sữa Vinamilk đến khu vực chung cư Felix Homes, Phường 6, quận Gò Vấp để bán cho Kim. Khi đến nơi, Kim nhờ Thương xuống gặp T và Q để nhận thùng sữa có chứa ma túy. Trên đường về thì T bị Tổ công tác mời về trụ sở làm việc và đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Trước đó, T có nhờ Nguyễn Thị Phượng giúp T cất giấu ma túy, T hứa sẽ trả công cho Phượng từ 3.000.000 - 4.000.000 đồng, Phượng đồng ý nên trước khi đi giao ma túy cho Kim, T nhờ Phan Thị Bạch Huệ (vợ của T) gọi điện thoại cho ông Phạm Văn Minh (chồng Phượng) kêu Phượng đến nhà T lấy 01 túi nylon bên trong có chứa 03kg ma túy đá mang về nhà cất giữ, T không nói cho Huệ biết bên trong túi nylon có chứa ma túy. Khi Phượng mang số ma túy nêu trên về đến trước cửa phòng trọ của Phượng thì bị phát hiện bắt quả tang thu giữ cùng vật chứng. Việc T và Q mua bán ma túy thì Huệ và Nhung hoàn toàn không biết.

+ Lời khai của Lê Thị Cẩm Nhung và Phan Thị Bạch Huệ phù hợp với lời khai của T về việc T có mượn số tài khoản của Nhung để người khác chuyển số tiền 600.000.000 đồng vào tài khoản. Nhung và Huệ có nhìn thấy Phạm Phú Q cầm 01 túi xách màu đen và 01 túi nylon màu đen (không biết bên trong có chứa gì) đến nhà giao cho T. Sau đó, T đem vào phòng khách lấy ra một số gói nylon màu vàng chia làm hai phần, một phần T bỏ vào trong 01 thùng sữa bằng giấy mang đi, phần còn lại T bỏ vào 01 gói nylon màu trắng và dặn Huệ gọi điện thoại cho ông Phạm Văn Minh kêu Phượng sang nhà lấy gói đồ của T gửi giữ giúp. Nhung và Huệ không biết và không tham gia phụ giúp T mua bán ma túy.

+ Nguyễn Thị Phượng khai nhận: Bản thân không có lai lịch rõ ràng, trước khi bị bắt Phượng sử dụng nhiều tên họ khác nhau để thực hiện các giao dịch và quan hệ dân sự. Năm 2017, Phượng chuyển đến tạm trú tại khu vực Phường 5, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh và là hàng xóm sống gần nhà với T. Cách ngày bị bắt khoảng 03 ngày, T gặp Phượng và nhờ Phượng cất giữ ma túy giúp T để được trả công từ 3.000.000 đồng - 4.000.000 đồng, Phượng đồng ý. Ngày 12/6/2021, Phượng có đến nhà T gặp Huệ và Nhung lấy 01 túi nylon bên trong chứa ma túy mang về nhà cất giấu thì bị phát hiện bắt giữ; phù hợp với lời khai của Lê Văn T, Nhung và Huệ như đã nêu trên. Sau đó, trong quá trình điều tra, Phượng thay đổi lời khai, không thừa nhận hành vi cất giấu gói ma túy giúp cho T để hưởng lợi mà chỉ nhận cất giữ giúp T 01 gói bánh, Phượng không biết bên trong gói nylon có chứa ma túy.

Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai ban đầu của Phượng, T, Nhung và Huệ và các tài liệu chứng cứ được thu thập hợp pháp đủ căn cứ chứng minh hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Thị Phượng.

Phạm Phú Q khai nhận đã phụ giúp T mua bán ma túy phù hợp với lời khai của T đã nêu trên.

Trần Thị Kim khai nhận phù hợp với lời khai của Lê Văn T: Trần Thị Kim và T quen biết từ đầu tháng 5/2021, biết T có hoạt động mua bán ma túy nên Kim đã 03 lần mua ma túy của T để bán lại cho khách để kiếm lời, cụ thể.

- Lần thứ 1: Ngày 10/6/2021, Kim mua của T 02kg ma túy đá với giá 430.000.000 đồng và bán lại cho một người đàn ông tên Bi (không rõ lai lịch) tại khu vực Ngã tư Ga, Quận 12 với giá 450.000.000 đồng, thu lợi 20.000.000 đồng. Sau đó, Kim hỏi mượn lại của Bi 10 gam ma túy loại MA để đưa cho Nguyễn Thanh Phong bán cho khách.

- Lần thứ 2: Ngày 11/6/2021, Kim mua của T 02kg ma túy loại MA với giá 430.000.000 đồng đem về phòng ngủ của mình tại căn hộ số F11.05 chung cư Felix Homes (số 44 Nguyễn Văn Dung, Phường 6, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh) cất giấu và phân nhỏ thành 19 gói có khối lượng 100 gam/01 gói, 01 gói có khối lượng 90 gam và 02 gói có khối lượng 05 gam/01 gói để bán lại cho khách. Khoảng 18h00’ cùng ngày, Kim đã bán 08 gói (loại 100 gam/01 gói) và 01 gói 90 gam cho một người đàn ông tên Văn (không rõ lai lịch) với giá 215.000.000 đồng tại khu vực cầu An Lộc, Quận 12. Kim đưa 02 gói nhỏ (05 gam/01 gói) cho Nguyễn Thanh Phong để bán cho khách mua lẻ. Còn lại 11 gói (loại 100 gam/01 gói) Kim cất giấu tại ngăn kéo dưới giường ngủ để bán nhưng chưa bán được thì bị khám xét thu giữ.

- Lần thứ 3: Khoảng 10h00’ ngày 12/6/2021, Kim đặt mua của T 03kg ma túy loại MA, với giá 645.000.000 đồng và thỏa T chuyển trước số tiền 600.000.000 đồng cho T qua tài khoản ngân hàng và xin nợ lại số tiền 45.000.000 đồng, T đồng ý. Sau đó, Kim vay của một người đàn ông tên Trung (không rõ lai lịch) 700.000.000 đồng và nhờ Trung chuyển vào tài khoản ngân hàng của Dương Trần Anh Điệp (con ruột Kim), Kim nhờ Điệp chuyển 600.000.000 đồng vào tài khoản số 0071001051856 tại Vietcombank mang tên Lê Thị Cẩm Nhung để mua 03 kg ma túy đá của T, còn lại 100.000.000 đồng thì Kim sử dụng để tiêu xài cá nhân, Kim không nói cho Điệp biết là chuyển tiền để mua bán ma túy nên Điệp đồng ý. Đến khoảng 18h30’ cùng ngày, Kim nhờ Cao Thị Thương (sống cùng căn hộ với Kim) xuống trước chung cư Felix Homes gặp T và Q nhận giúp 01 thùng sữa (nhưng không nói cho Thương biết bên trong thùng sữa có chứa ma túy), khi Thương mang thùng sữa đến thang máy chung cư thì bị phát hiện bắt giữ; Thương không biết cũng không tham gia mua bán ma túy cùng với Kim. Lời khai của Trần Thị Kim và Thương là phù hợp với nhau.

Ngoài ra, Kim còn khai nhận: Ngày 11/6/2021, Kim mua của người đàn ông tên Dũng (không rõ lai lịch) 01 bánh Heroine và khoảng 25 chỉ Heroine với giá là 200.000.000 đồng. Ngoài ra, Dũng còn đưa thêm cho Kim 06 viên thuốc lắc để trong 01 hộp giấy bên ngoài có quấn băng keo màu xanh lá ghi chữ “HÀNG DỄ VỠ” làm hàng mẫu để chào bán cho khách, hẹn giao dịch tại khu vực Ngã Tư Ga, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh. Số ma túy này, Kim cất giấu tại phòng ngủ cùng với số ma túy còn lại đã mua của T trước đó chưa kịp bán thì bị phát hiện thu giữ.

Phụ giúp cho Kim trong việc mua bán ma túy, còn có Nguyễn Thanh Phong, Phong đã giúp Kim đi giao ma túy được 03 lần, cụ thể:

- Lần thứ 1: Khoảng 09h00’ ngày 11/6/2021, Kim chỉ đạo Phong đem 10 gam ma túy loại MA đến khu vực đường Tô Ngọc Vân, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh bán cho khách tên Tèo (không rõ lịch) với giá 2.400.000 đồng, Kim trả công cho Phong 300.000 đồng.

- Lần thứ 2: Khoảng 10h00’ ngày 12/6/2021, Kim chỉ đạo Phong đem 05 gam ma túy loại MA đến khu vực đường Phạm Văn Chiêu, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh bán cho khách tên Bảnh (không rõ lai lịch) với giá 1.200.000 đồng, Kim trả công cho Phong 200.000 đồng.

- Lần thứ 3: Khoảng 17h00’ ngày 12/6/2021, Kim chỉ đạo Phong đem 05 gam ma túy loại MA đến khu vực chợ An Nhơn, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh bán cho khách (không rõ tên, lai lịch) với giá 1.200.000 đồng. Khi Phong đang trên đường về bị phát hiện bắt giữ, Phong chưa nhận được tiền bán ma túy và tiền công do Kim trả.

Lời khai của Cao Thị Thương và Nguyễn Thanh Phong phù hợp với lời khai của Trần Thị Kim như đã nêu trên.

Lời khai của Dương Trần Anh Điệp phù hợp với lời khai của Kim về việc Kim mượn số tài khoản của Điệp để nhận số tiền 700.000.000 đồng từ một tài khoản khác và nhờ Điệp chuyển 600.000.000 đồng vào số tài khoản của Nhung, còn lại 100.000.000 đồng Điệp đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra xử lý.

* Vật chứng thu giữ trong vụ án:

- Thu giữ của Trần Thị Kim:

+ 01 gói niêm phong số 940/2021 - PC04 và 01 thùng niêm phong số 941/2021 bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Xuân Sang, Điều tra viên Vũ Phát Đạt, bên trong là ma túy và mẫu vật còn lại sau giám định;

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (số IMEI 1: 356933112594603, IMEI 2: 356933112794609) và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen (IMEI 1: 353544562115154, IMEI 2: 353914472115158) của Kim sử dụng để liên lạc với cá nhân và thực hiện tội phạm;

+ 03 cân điện tử hiệu Pocket scale; 02 túi nylon bên trong chứa nhiều túi nhựa rỗng; 06 đoạn ống thủy tinh; 01 bình nhựa có gắn nỏ và ống hút và 01 túi đeo màu nâu của Kim sử dụng để mua bán và sử dụng ma túy;

+ Số tiền 180.000.000 đồng, là tiền Kim thu lợi và sử dụng vào việc mua bán trái phép ma túy. Cơ quan điều tra đã nộp vào Kho bạc Nhà nước Quận 10 để quản lý theo quy định.

- Thu giữ của Cao Thị Thương:

+ 01 thùng niêm phong ghi số 942/2021 - PC04, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Xuân Sang, Điều tra viên Vũ Phát Đạt, bên trong là ma túy và mẫu vật còn lại sau giám định. Đây là số ma túy của Kim nhờ Thương gặp T và Q để nhận giúp;

+ 11 gói chứa sữa tươi nhãn hiệu Vinamilk.

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen (số IMEI: 357270091891281) và 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen (số IMEI1: 352884792796394, IMEI2: 353649452796391) của Thương sử dụng để liên lạc cá nhân, không liên quan đến vụ án.

- Thu giữ của Lê Văn T:

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh (IMEI: 353117112815407 T sử dụng để thực hiện tội phạm;

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone (IMEI1: 357095182398817, IMEI2:

357095182443175) của T sử dụng để liên lạc cá nhân;

+ 01 xe gắn máy biển số 59S3-489.74, số khung: RLHJK0325MZ014831, Số máy: JK03E7520167 do Lê Thị Cẩm Nhung (con ruột T) đứng tên sở hữu. Ngày 12/6/2021, Nhung cho T mượn xe để đi công việc và không biết T sử dụng để thực hiện tội phạm.

+ Số tiền 58.500.000 đồng là tiền cá nhân của T dùng để tiêu xài cá nhân, Cơ quan điều tra đã nộp vào Kho bạc Nhà nước Quận 10.

+ Số tiền 179.000.000 đồng, T và Huệ khai là tiền góp hụi và tích góp của Phan Thị Bạch Huệ (vợ T) mà có, gồm: 109.700.000 đồng tích góp được và tiền thu hụi của người dân gần nhà gồm: Phạm Anh Tuấn; Lê Thị Hiếu; Huỳnh Thị Bích Nga; Phạm Thị Bạch Tuyết. Lời khai của Huệ phù hợp với lời khai của Nga, Tuyết, Tuấn và Hiếu. Cơ quan điều tra đã nộp vào Kho bạc Nhà nước Quận 10 để quản lý theo quy định.

- Thu giữ của Phạm Phú Q:

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu vàng (số IMEI:

358609073331627) của Q sử dụng để liên lạc cá nhân và thực hiện tội phạm;

+ 01 xe gắn máy biển số 59P1-455.00, số khung: 24099Y025468, Số máy: JF24E0028716 do ông Võ Minh Trung, sinh năm 1979 ngụ tại số 211/58, Hoàng Hoa Thám, Phường 5, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên sở hữu. Ông Trung khai đã bán xe cho chị Nguyễn Thị Ngọc Tuyền, sinh năm 1978 ngụ tại số 338/1/18A Nguyễn Xí, Phường 13, quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng không làm thủ tục sang tên theo quy định. Trước ngày bị bắt khoảng 01 tuần, chị Tuyền cho Q mượn xe để làm phương tiện đi lại và không biết Q sử dụng để thực hiện tội phạm.

+ Số tiền 14.500.000 đồng là tiền T trả công cho Q từ việc phụ giúp mua bán ma túy mà có. Cơ quan điều tra đã nộp vào Kho bạc Nhà nước Quận 10 để quản lý theo quy định.

- Thu giữ của Nguyễn Thị Phượng:

+ 01 thùng niêm phong số 943/2021 - PC04, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Nguyễn Xuân Sang (PC09), Điều tra viên Vũ Phát Đạt (PC04), bên trong là ma túy và mẫu vật còn lại sau giám định.

+ 01 điện thoại hiệu Samsung màu đen (số IMEI 1: 3523112064032/01, IMEI 2: 352354112064030/01); 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (số IMEI: 353161110322503) và 01 điện thoại di động hiệu Mobell màu xanh. Phượng khai là của ông Phạm Văn Minh, sinh năm 1964 ngụ tại số 820/102/6A Nguyễn Kiệm, Phường 3, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh là người sống chung như vợ chồng với Phượng. Lời khai của ông Minh phù hợp với lời khai của Phượng;

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh (số IMEI:

354198104776202) của Phượng sử dụng để liên lạc cá nhân, không liên quan đến vụ án.

+ Số tiền 7.000.000 đồng, là tiền của cá nhân Phượng, không liên quan đến vụ án. Cơ quan điều tra đã nộp vào kho bạc Nhà nước Quận 10 để quản lý theo quy định.

- Thu giữ của Nguyễn Thanh Phong:

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (số IMEI 1:

352415904696949, IMEI 2: 352415906696947) sử dụng để liên lạc thực hiện tội phạm;

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xám bạc (số IMEI 1:

353408117126886, IMEI 2: 353409117126884) sử dụng để liên lạc cá nhân;

+ 01 cân điện tử hiệu Pocket scale; 20 gói nylon rỗng; 01 quẹt gas và 01 căn cước công dân tên Nguyễn Thanh Phong.

+ 01 xe gắn máy biển số 59V3- 380.41, số máy: JA39E-1612027, số khung: RLHJA3912LY273641 do ông Phạm Công Đức, sinh năm 1965 ngụ tại số 383/7/1 Lê Đức Thọ, Phường 17, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên sở hữu. Ngày 22/3/2021, ông Đức làm hợp đồng mua bán xe cho ông Nguyễn Đình Sơn, sinh năm 1972 ngụ tại số 49/5P Quang Trung, Phường 8, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng không làm thủ tục sang tên. Ngày 19/4/2021, ông Sơn lập hợp đồng bán lại xe cho chị Nguyễn Thị Xanh Trang, sinh năm 1981 ngụ tại số 14/14A Phạm Văn Chiêu, Phường 13, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh (vợ Phong) nhưng không làm thủ tục sang tên theo quy định. Đây là tài sản chung của chị Trang và bị cáo Phong, Phong khai nhận đã sử dụng xe để giúp Kim đi mua bán ma túy.

- Thu giữ của Lê Thị Cẩm Nhung:

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu hồng (số IMEI: 353730396122355), của Nhung sử dụng để liên lạc cá nhân, không có liên quan đến vụ án.

+ Số tiền 637.091.076 đồng có trong tài khoản số VCB0071001051856, tại ngân hàng Vietcombank do Lê Thị Cẩm Nhung đứng tên. Ngày 15/6/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Lệnh phong tỏa số tài khoản trên. Trong đó, có 600.000.000 đồng tiền của Kim chuyển cho T để mua ma túy. Ngày 09/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã ra quyết định thu giữ số tiền 600.000.000 đồng và chuyển số tiền trên vào tài khoản của Cơ quan Cảnh sát điều tra tại Kho bạc nhà nước Quận 10 để quản lý theo quy định. Còn lại 37.091.076 đồng là tiền của cá nhân Nhung và không liên quan đến vụ án.

- Thu giữ của Phan Thị Bạch Huệ: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax màu trắng (số IMEI: 353893103020450) để liên lạc cá nhân, không liên quan đến vụ án.

- Thu giữ của Dương Trần Anh Điệp: Số tiền 100.000.000 đồng là tiền của bị cáo Kim vay của người đàn ông tên Trung (không rõ lai lịch) vào ngày 12/6/2021 để Kim tiêu xài cá nhân, do Điệp cất giữ giúp Kim. Cơ quan điều tra đã nộp vào tài khoản của Cơ quan Cảnh sát điều tra tại kho bạc Nhà nước Quận 10 để quản lý theo quy định.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 610/2022/HS-ST ngày 27 tháng 12 năm 2022 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

1. Căn cứ vào điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 40 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

1.1. Xử phạt bị cáo Lê Văn T tử hình, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

- Phạt bổ sung bị cáo Lê Văn T 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng nộp ngân sách nhà nước.

1.2. Xử phạt bị cáo Phạm Phú Q tử hình, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

- Phạt bổ sung bị cáo Phạm Phú Q 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng nộp ngân sách nhà nước.

Ngoài ra, bản án còn tuyên xử bị cáo Kim, Phượng, Phong quyết định hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 30 và 31/12/2022 bị cáo Phạm Phú Q, bị cáo Lê Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Trong phần tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Các bị cáo T, Q đã thừa nhận hành vi phạm tội, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ; Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ. Các bị cáo cho rằng không biết tác hại của ma túy nên mới phạm tội là không phù hợp; lượng ma túy các bị cáo cùng tham gia mua bán 10kg, là rất lớn. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử mức án tử hình đối với các bị cáo là phù hợp, không có căn cứ để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử bác đơn kháng cáo của các bị cáo, giữ y bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo T trình bày: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội; Cơ quan Công an không bắt quả tang bị cáo, nhưng bị cáo đã khai ra toàn bộ hành vi phạm tội; Tòa án cấp sơ thẩm chỉ áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự là chưa thỏa đáng, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Q trình bày: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Q đúng tội; trong vụ án bị cáo Q tham gia với vai trò giúp sức 2 lần, nhận thức có hạn chế; từ đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét vai trò của bị cáo; chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ hình phạt xuống tù chung thân cũng đủ răn đe và giáo dục.

Các bị cáo nhất trí với lời bào chữa của luật sư, không tham gia tranh tụng.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia tranh tụng: Luật sư cho rằng các bị cáo không bị bắt quả tang, nhưng bắt các đối tượng khác khai báo ra nguồn ma túy do các bị cáo bán, phù hợp với lời khai, vật chứng; các bị cáo khai do hạn chế nhận thức không biết tác hại của ma túy là không phù hợp.

Các bị cáo có lời nói sau cùng, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, cho các bị cáo cơ hội được sống.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Đơn kháng cáo của bị cáo Lê Văn T và Phạm Phú Q đúng luật định, hợp lệ nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

- Xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Văn T và Phạm Phú Q:

[1]. Lời khai nhận của bị cáo Lê Văn T, Phạm Phú Q cùng với lời khai nhận của bị cáo Trần Thị Kim, Nguyễn Thanh Phong và Nguyễn Thị Phượng tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, nhận dạng, đối chất, vật chứng là ma túy thu giữ của các bị cáo trong vụ án, Kết luận giám định số: 3931, 3932, 3933 và 3934/KLGĐ-MT ngày 21/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo Lê Văn T và Phạm Phú Q là đồng phạm chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán trái phép chất ma túy ở thể rắn đối với khối lượng đã mua bán và bị bắt quả tang thu giữ, gồm:

04 kg ma túy loại Methamphetamine (bán cho bị cáo Kim vào các ngày 10 và 11/6/2021) và 2.995,83 gam Methamphetamine (bán cho bị cáo Kim vào ngày 12/6/2021) và 2.994,16 gam Methamphetamine (thu giữ của bị cáo Phượng) ; tổng cộng là 9.989,99 gam, loại Methamphetamine. Tòa án cấp sơ thẩm quy kết bị cáo Lê Văn T và Phạm Phú Q đã phạm vào tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ.

[2]. Tòa án cấp sơ thẩm xác định hành vi phạm tội của bị cáo Lê Văn T, Phạm Phú Q là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy; là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm về ma túy và tệ nạn xã hội khác, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Các bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, bị nghiêm cấm nhưng vì động cơ tư lợi bất chính rất lớn, các bị cáo bất chấp sự nghiêm cấm của Nhà nước, cố ý phạm tội, nên người bào chữa cho các bị cáo cho rằng các bị cáo hạn chế nhận thức về tác hại của ma túy là không phù hợp. Trong vụ án này bị cáo T giữ vai trò chính là người mua, bán lại ma túy với khối lượng rất lớn; bị cáo Q là người thực hành và giúp sức tích cực, cùng với bị cáo T đi mua ma túy mang về nhà cất giấu và trực tiếp mang ma túy đi giao theo chỉ đạo của bị cáo T; các bị cáo Lê Văn T, Phạm Phú Q còn phạm tội thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên”; là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đồng thời, Tòa án cấp sơ thẩm cũng xác định các bị cáo T, Q có thái độ khai báo thành khẩn, phần nào thể hiện sự ăn năn, hối cải; các bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo; về nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo T còn có thân nhân là người có công với Cách mạng (bà nội được tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng), là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Mặc dù có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tuy nhiên việc mua bán trái phép chất ma túy với khối lượng đặc biệt lớn 9.989,99 gam, loại Methamphetamine, trong đó một lượng lớn ma túy đã tiêu thụ, thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên”, thể hiện thái độ bất chấp xem thường pháp luật và không còn khả năng cải tạo. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo Lê Văn T, Phạm Phú Q mức án tử hình là tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của từng bị cáo và đảm bảo tác dụng răn đe trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm ma túy.

[3]. Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử thấy các bị cáo Lê Văn T, Phạm Phú Q kháng cáo nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận, lời bào chữa của vị luật sư cho các bị cáo không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận; không chấp nhận đơn kháng cáo của các bị cáo; giữ y bản án sơ thẩm. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.

I. Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Lê Văn T, bị cáo Phạm Phú Q; Giữ y Bản án hình sự sơ thẩm số: 610/2022/HS-ST ngày 27 tháng 12 năm 2022 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh:

1. Căn cứ vào điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 40 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

1.1. Xử phạt bị cáo Lê Văn T tử hình, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 14/6/2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

- Phạt bổ sung bị cáo Lê Văn T 50.000.000 (năm mươi triệu) đồng nộp ngân sách nhà nước.

1.2. Xử phạt bị cáo Phạm Phú Q tử hình, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 14/6/2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

- Phạt bổ sung bị cáo Phạm Phú Q 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng nộp ngân sách nhà nước.

Trong thời hạn 07 (bảy) ngày, kể từ ngày tuyên án người bị kết án tử hình được gửi đơn xin ân giảm án tử hình lên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

II. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Văn T và bị cáo Phạm Phú Q, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng.

III. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

517
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 193/2023/HS-PT

Số hiệu:193/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về