TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 134/2023/HS-ST NGÀY 30/06/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 6 năm 2023, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 116/2023/TLST-HS, ngày 19 tháng 4 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 181/2023/QĐXXST-HS, ngày 16 tháng 6 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Trương Thị Kim H1 (tên gọi khác: D), sinh năm 1969, tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số A, đường P, Phường E, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh (đã bán nhà từ năm 2015 và đi đâu không rõ); nơi ở: Nhà số I, đường H, Phường A, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn H2 và bà Nguyễn Thị M (chết); có chồng và 03 con, lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 26/12/2002, bị Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về “Tội mua bán trái phép chất ma túy” (đã chấp hành xong hình phạt chính ngày 23/02/2007 và 01 phần các quyết định khác tháng 8/2013, phần còn lại được xét miễn vào ngày 25/7/2013, án tích đã được xóa); ngày 13/6/2018, bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về “Tội mua bán trái phép chất ma túy” (đã chấp hành xong hình phạt chính ngày 07/10/2019 và quyết định khác tháng 10/2018, án tích đã được xóa); bị bắt tạm giữ ngày 08-11-2022 (trong trường hợp phạm tội quả tang), tạm giam ngày 17-11-2022 “có mặt”;
2. Hà Trần H3, sinh năm 1981, tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Nhà số C, Đường Số E, Khu phố I, phường T, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Duy B và bà Trần Thị T; có vợ và 02 con, lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Ngày 10/6/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy” (đã chấp hành xong hình phạt chính ngày 21/6/2012 và các quyết định khác ngày 26/10/2011, án tích đã được xóa); ngày 22/01/2013, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận H13, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh 24 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” (đã chấp hành xong Quyết định ngày 25/12/2013, được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính); bị bắt tạm giữ ngày 08-11-2022 (trong trường hợp phạm tội quả tang), tạm giam ngày 17-11-2022 “có mặt”;
3. Nguyễn Xuân H4, sinh năm 1973, tại Thành phố Hà Nội. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xã N, huyện T, Thành phố Hà Nội; nơi ở: Ấp A, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Mạnh H5 (chết) và bà Nguyễn Thị C; có vợ và 03 con, lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 2004; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ ngày 08-11-2022 (trong trường hợp phạm tội quả tang), tạm giam ngày 17-11-2022 “có mặt”;
4. Lý Quang H6, sinh năm 1983, tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số C, đường H, Phường E, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở: Không ổn định; nghề nghiệp: Không có; trình độ văn hóa: 2/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Tô H7 và bà Trần Lệ B1 (chết); chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ ngày 08-11-2022 (trong trường hợp phạm tội quả tang), tạm giam ngày 17-11- 2022 “có mặt”.
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Khúc Hà T1, sinh năm 1971. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Nhà số A, đường B, Khu phố G, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở: Nhà số B, đường L, Tổ A, Ấp B, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh “có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 07 giờ ngày 08/11/2022, Đội Cảnh sát Điều tra Tội phạm về Ma túy-Công an quận B kết hợp với Công an phường B B tuần tra đến trước nhà số G, đường T, phường B, quận B thì nhìn thấy Lý Quang H6 đang điều khiển xe môtô biển số 52L7-xxxx có biểu hiện nghi vấn nên ra hiệu dừng xe lại để kiểm tra. Qua kiểm tra, đã phát hiện thu giữ từ trong túi áo khoác bên phải của H6 đang mặc 02 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu chứa chất bột màu trắng. Khi đó, H6 khai là ma túy loại Heroin vừa mua của Hà Trần H3 để sử dụng nên Tổ công tác đưa H6 cùng với vật chứng đến Công an phường B xử lý người có hành vi phạm tội quả tang.
Trong lúc thực hiện mở rộng điều tra thì lúc 07 giờ 40 phút cùng ngày, Tổ công tác đến trước nhà số G, đường T, phường B, quận B nhìn thấy Nguyễn Xuân H4 đang điều khiển xe môtô biển số 54N5-xxxx có biểu hiện nghi vấn nên ra hiệu dừng xe lại để kiểm tra; qua kiểm tra, đã phát hiện thu giữ từ trong túi quần phía trước bên trái của H4 đang mặc 01 gói nylon bên trong có 08 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu chứa chất bột màu trắng; khi đó, H4 khai là ma túy loại Heroin vừa mua của Trương Thị Kim H1 để sử dụng nên Tổ công tác đưa H4 cùng với vật chứng đến Công an phường B xử lý người có hành vi phạm tội quả tang. Liền sau đó lúc khoảng 07 giờ 45 phút cùng ngày, Tổ công tác đến trước nhà số C, đường T, phường A, quận B nhìn thấy tên Mai Văn K có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra; qua kiểm tra, đã phát hiện thu giữ từ trong lòng bàn tay trái của tên K đang cầm nắm 01 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu chứa chất bột màu trắng; khi đó, tên K khai là ma túy loại Heroin vừa mới mua của Hà Trần H3 để sử dụng nên đưa tên K cùng với vật chứng đến Công an phường A xử lý. Qua lời khai của H6 và tên K, lúc 08 giờ 20 phút cùng ngày, Tổ công tác đến trước nhà số H, đường T, phường B, quận B nhìn thấy Hà Trần H3 đang điều khiển xe môtô biển số 60M5-xxxx có biểu hiện nghi vấn nên ra hiệu dừng xe lại để kiểm tra; qua kiểm tra, đã phát hiện thu giữ từ trong lòng bàn tay trái của H3 đang cầm nắm 01 gói nylon bên trong có 15 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu chứa chất bột màu trắng; khi đó, H3 khai là ma túy loại Heroin vừa mua của Trương Thị Kim H1 để bán lại cho người khác kiếm lời nên Tổ công tác đưa H3 cùng với vật chứng đến Công an phường B xử lý người có hành vi phạm tội quả tang. Tiếp theo lời khai của H3, lúc khoảng 09 giờ 30 phút cùng ngày, Tổ công tác đến trước nhà số A, đường T, phường T, quận B nhìn thấy Trương Thị Kim H1 đang điều khiển xe môtô biển số 55X7-xxxx có biểu hiện nghi vấn nên ra hiệu dừng xe lại để kiểm tra; qua kiểm tra, đã phát hiện thu giữ từ trong túi áo khoác bên trái của H1 đang mặc 01 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu chứa chất bột màu trắng; khi đó, H1 khai là ma túy loại Heroin để bán cho người khác kiếm lời nên Tổ công tác đưa H1 cùng với vật chứng đến Công an phường T xử lý người có hành vi phạm tội quả tang. Đồng thời, thực hiện Lệnh khám xét nơi ở của H1 tại nhà số I, đường H, Phường A, Quận F lúc 18 giờ cùng ngày, đã thu giữ thêm 01 gói nylon bên trong có 01 cái hộp nhựa màu hồng đựng 64 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu để dưới gốc cầu thang; khi đó, H1 khai là ma túy loại Heroin của H1 cũng nhằm để bán cho người khác kiếm lời. Sau đó, toàn bộ vụ việc như vừa mới nêu đã chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền.
Tại Cơ quan điều tra, Trương Thị Kim H1 khai: Vào khoảng 06 giờ ngày 07/11/2022, H1 đến khu vực B, Quận H mua 105 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu là ma túy loại Heroin của người đàn ông (không rõ lai lịch) với giá tiền 4.100.000 đồng về để bán lại cho người khác kiếm lời. Đến khoảng 07 giờ ngày 07/11/2022, H1 đã bán 32 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu này cho Hà Trần H3 với giá 3.000.000 đồng trên đường B, Phường A, Quận F; sau đó lúc khoảng 07 giờ 35 phút ngày 08/11/2022, H1 đã bán tiếp 08 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu cho Nguyễn Xuân H4 với giá 800.000 đồng trên đường T, phường B, quận B; còn lại 01 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu cất trong túi áo khoác và 64 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu để tại nhà thì cũng đều là ma túy của H1 nhằm mục đích bán cho người người khác kiếm lời. Hà Trần H3 khai: Vào khoảng 07 giờ ngày 07/11/2022, H3 có mua 32 đoạn ống nhựa là ma túy loại Heroin của Trương Thị Kim H1 trên đường B, phường A, Quận F với giá tiền 3.000.000 đồng và đã sử dụng hết 14 đoạn ống nhựa này; đến khoảng 06 giờ 45 phút ngày 08/11/2022, H3 đã bán 02 đoạn ống nhựa cho Lý Quang H6 với giá 240.000 đồng trên Đường Số B, phường B, quận B và lúc 07 giờ 15 phút cùng ngày, bán tiếp 01 đoạn ống nhựa cho tên Mai Văn K với giá 130.000 đồng trên đường T, phường A, quận B; còn lại 15 tép cũng để bán kiếm lời thì bị Công an kiểm tra bắt giữ. Nguyễn Xuân H4 khai: Do nghiện ma túy nên lúc khoảng 07 giờ 35 phút ngày 08/11/2022, H4 đến khu vực đường T, phường B, quận B mua 08 đoạn ống nhựa là ma túy loại Heroin của Trương Thị Kim H1 với giá 800.000 đồng và khi đang trên đường về để sử dụng thì bị Công an kiểm tra bắt giữ. Lý Quang H6 khai: Do nghiện ma túy nên lúc khoảng 06 giờ 45 phút ngày 08/11/2022, H6 đến khu vực Đường Số B, phường B, quận B mua 02 đoạn ống nhựa là ma túy loại Heroin của H7 Trần H3 với giá 240.000 đồng và khi đang trên đường về để sử dụng thì bị Công an kiểm tra bắt giữ. Theo kết luận giám định, H1 phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 8,0362g, loại H8; H3 với tổng số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,4843g, loại Heroin; Hinh với số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6954g, loại H8 và H6 với số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1856g, loại Heroin. Riêng đối với tên K, do hành vi cất giữ số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0263g, loại Heroin chỉ nhằm mục đích để sử dụng và không có tiền án, tiền sự gì nên chưa đủ yếu tố cấu thành “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên chuyển sang xử phạt hành chính.
Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trương Thị Kim H1 khai: Do cần có tiền tiêu xài nên trước đó bị cáo đã đến khu vực B, Quận H mua 105 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu là ma túy loại Heroin của người đàn ông (không rõ lai lịch) với giá tiền 4.100.000 đồng để bán lại cho người khác kiếm lời; sau đó, bị cáo đã bán 32 đoạn ống nhựa này cho bị cáo Hà Trần H3 với giá 3.000.000 đồng rồi sau đó bán tiếp 08 đoạn ống nhựa cho bị cáo Nguyễn Xuân H4 với giá 800.000 đồng; còn lại 01 đoạn ống nhựa cất trong túi áo khoác và 64 đoạn ống nhựa để tại nhà thì cũng đều là ma túy của bị cáo nhằm mục đích bán cho người người khác kiếm lời thì bị Công an kiểm tra bắt giữ. Bị cáo Hà Trần H3 khai: Bị cáo thừa nhận có mua 32 đoạn ống nhựa là ma túy loại Heroin của bị cáo H1 với giá 3.000.000 đồng đúng như lời khai trên của bị cáo H1; trong số 32 đoạn ống nhựa đó, bị cáo đã sử dụng hết 14 đoạn ống nhựa, bán lại 02 đoạn ống nhựa cho bị cáo Lý Quang H6 với giá 240.000 đồng rồi sau đó bán tiếp 01 đoạn ống nhựa cho tên Mai Văn K với giá 130.000 đồng, còn lại 15 đoạn ống nhựa cũng để bán kiếm lời thì bị Công an kiểm tra bắt giữ. Các bị cáo Nguyễn Xuân H4 và Lý Quang H6 cùng khai: Do các bị cáo nghiện ma túy nên bị cáo H4 có mua 08 đoạn ống nhựa là ma túy loại Heroin của bị cáo H1 với giá 800.000 đồng đúng như lời khai trên của bị cáo H1, còn bị cáo H6 có mua 02 đoạn ống nhựa là ma túy loại Heroin của bị cáo H3 với giá 240.000 đồng đúng như lời khai trên của bị cáo H3, nhưng đều chỉ để sử dụng và khi đang trên đường về thì bị Công an kiểm tra bắt giữ nên nay tất cả các bị cáo đều thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Các bị cáo không có ý kiến gì về kết luận giám định ma túy và việc giải quyết vật chứng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh K1 Hà T1 khai: Chiếc xe môtô biển số 54N5-xxxx do anh đứng tên sở hữu và đã cho em rễ là bị cáo H4 mượn sử dụng lâu dài; tuy nhiên, do lúc xe bị tai nạn làm cho khung xe bị gãy và phải thay thế bằng khung xe khác nên xe không có số khung. Nay anh biết được chiếc xe này thuộc trường hợp Nhà nước không cho phép sử dụng lưu thông nên không có yêu cầu nhận lại.
Tại Cáo trạng số: 124/CT-VKS, ngày 13 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Trương Thị Kim H1, Hà Trần H3, Nguyễn Xuân H4 và Lý Quang H6 ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử các bị cáo H1 và H3 về “Tội mua bán trái phép chất ma túy”, đối với bị cáo H1 theo điểm b, i; còn bị cáo H3 theo điểm b cùng khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015; riêng các bị cáo H4 và H6 cùng về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận có ý kiến: Bị cáo Trương Thị Kim H1 đã thực hiện hành vi bán ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6954g, loại Heroin cho bị cáo Nguyễn Xuân H4 và ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,4843g, loại Heroin cho bị cáo Hà Trần H3; đồng thời, bị cáo còn cất giữ số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 5,8565g, loại H8 cũng nhằm mục đích để bán (tổng cộng ma túy ở thể rắn, có khối lượng 8,0362g, loại Heroin). Còn bị cáo Hà Trần H3 đã thực hiện hành vi bán ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1856g, loại Heroin cho bị cáo Lý Quang H6 và ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0263g, loại Heroin cho tên Mai Văn K; đồng thời, bị cáo còn cất giữ số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,2724g, loại H8 cũng nhằm mục đích để bán (tổng cộng ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,4843g, loại Heroin). Các bị cáo H1 và H3 đều còn phải chịu tình tiết định khung hình phạt là “Phạm tội 02 lần trở lên”. Riêng bị cáo Nguyễn Xuân H4 đã có hành vi cất giữ ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,6954g, loại H8 và bị cáo Lý Quang H6 đã có hành vi cất giữ ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1856g, loại Heroin đều nhằm mục đích để sử dụng (riêng hành hành vi của tên Mai Văn K chưa đủ yếu tố cấu thành “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015). Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương; riêng các bị cáo H1 và H3 còn có nhân thân xấu nên cần phải xử các bị cáo với mức án thật nghiêm và tương xứng. Tuy nhiên, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra các bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng đểm b, i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo H1 với mức án từ 09 năm đến 10 năm tù và phạt bổ sung số tiền từ 5.000.000 đến 10.000.000 đồng về “Tội mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng đểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo H3 với mức án từ 08 năm đến 09 năm tù và phạt bổ sung số tiền từ 5.000.000 đến 10.000.000 đồng về “Tội mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249;
điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo H4 với mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù và bị cáo H6 từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù cùng về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Còn về vật chứng, đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 4.400.000 đồng, 04 chiếc điện thoại di động, 01 chiếc xe môtô biển số 52L7-xxxx và 01 chiếc xe môtô biển số 54N5-xxxx. Tịch thu tiêu hủy 06 gói ma túy đã niêm phong sau giám định, 01 bịch nylon và 01 cái hộp nhựa.
Các bị cáo không ai tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra-Công an quận B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của các bị cáo Trương Thị Kim H1, Hà Trần H3, Nguyễn Xuân H4 và Lý Quang H6 tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào khoảng 07 giờ ngày 07/11/2022, bị cáo H1 đã có hành vi bán cho bị cáo H3 32 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu có chứa chất bột màu trắng trên đường B, Phường A, Quận F; sau đó lúc khoảng 07 giờ 35 phút ngày 08/11/2022, bị cáo tiếp tục bán cho bị cáo Nguyễn Xuân H4 08 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu có chứa chất bột màu trắng trên đường T, phường B, quận B; đồng thời lúc khoảng 09 giờ 30 phút ngày 08/11/2022, bị cáo còn có hành vi cất giữ 01 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu có chứa chất bột màu trắng tại trước nhà số A, đường T, phường T, quận B và lúc 18 giờ cùng ngày, bị cáo có thêm hành vi cất giữ 64 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu có chứa chất bột màu trắng tại nhà số I, đường H, Phường A, Quận F đều nhằm mục đích để bán thì bị bắt quả tang. Còn vào khoảng 06 giờ 45 phút ngày 08/11/2022, bị cáo H3 đã có hành vi bán cho bị cáo H6 02 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu có chứa chất bột màu trắng trên Đường Số B, phường B, quận B; sau đó lúc khoảng 07 giờ 15 phút cùng ngày, bị cáo còn tiếp tục bán cho tên Mai Văn K 01 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu có chứa chất bột màu trắng trên đường T, phường A, quận B; đồng thời lúc khoảng 08 giờ 20 phút cùng ngày tại trước nhà số H, đường T, phường B, quận B, bị cáo còn có thêm hành vi cất giữ 15 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu có chứa chất bột màu trắng cũng nhằm mục đích để bán thì bị bắt quả tang (mua của bị cáo H1 32 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu có chứa chất bột màu trắng và đã sử dụng hết 14 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu có chứa chất bột màu trắng). Riêng lúc khoảng 07 giờ ngày 08/11/2022 tại trước nhà số G, đường T, phường B, quận B, bị cáo H6 đã có hành vi cất giữ 02 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu có chứa chất bột màu trắng do vừa mới mua được của bị cáo H3 nhằm mục đích để dành sử dụng thì bị bắt quả tang. Lúc khoảng 07 giờ 40 phút cùng ngày tại trước nhà số G, đường T, phường B, quận B, bị cáo H4 đã có hành vi cất giữ 08 đoạn ống nhựa hàn kín hai đầu có chứa chất bột màu trắng do vừa mới mua được của bị cáo H1 nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang.
[3] Theo các Kết luận giám định số: 6498/KL-KTHS, 6499/KL-KTHS, 6500/KL-KTHS, 6508/KL-KTHS và 6509/KL-KTHS cùng ngày 16/11/2022 của Phòng K2-Công an Thành phố H, lần lượt kết luận: “Bột màu trắng trong 08 đoạn ống nhựa (để trong 01 gói nylon) được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Xuân H4, Lê Quang N (người chứng kiến), Phan Tấn H9 (Điều tra viên) và hình dấu Công an phường B, quận B” gửi đến giám định “đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,6954g, loại Heroin”; “Bột màu trắng trong 02 đoạn ống nhựa được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Lý Quang H6, Lê Hoàng T2 (người chứng kiến), Nguyễn Ngọc T3 (Điều tra viên) và hình dấu Công an phường B, quận B”,“đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,1856g, loại Heroin”; “Bột màu trắng trong 01 đoạn ống nhựa màu trắng được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Mai Văn K, Trần Văn S (người chứng kiến), Phan Tấn H9 (Điều tra viên) và hình dấu Công an phường A, quận B”, “là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0263g, loại Heroin”; “Bột màu trắng trong 15 đoạn ống nhựa màu trắng (để trong 01 gói nylon) được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Hà Trần H3, Phan Tấn H9 (Điều tra viên), Từ Xương T4 (người chứng kiến), và hình dấu Công an phường B, quận B”,“đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 1,2724g, loại Heroin”; “Gói 1: Bột màu trắng trong 01 đoạn ống nhựa màu trắng được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay ghi tên Trương Thị Kim H1, các chữ ký ghi tên Trương Văn T5 (người chứng kiến), Lý Văn D1 (Điều tra viên) và hình dấu Công an phường T, quận B”, “là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1775g, loại Heroin”; “Gói 2: Bột màu trắng trong 64 đoạn ống nhựa màu trắng được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay ghi tên Trương Thị Kim H1, Thái H10 (người chứng kiến), Phan Tấn H9 (Điều tra viên) và hình dấu Công an P, Quận F”, “đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 5,6790g, loại Heroin”.
[4] Như vậy, bị cáo H1 phải chịu trách nhiệm hình sự với số ma túy đều ở thể rắn, có tổng khối lượng 8,0362g, loại H8 cùng với tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên”; bị cáo H3 với số ma túy đều ở thể rắn, có tổng khối lượng 1,4843g, loại H8 cùng với tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên”; bị cáo H4 với số ma túy đều ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,6954g, loại H8 và bị cáo H6 với số ma túy đều ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,1856g, loại Heroin. Do đó, các bị cáo H1 và H3 đã phạm “Tội mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt đối với bị cáo H1 được quy định tại điểm b, i; còn bị cáo H3 được quy định tại điểm b cùng khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015. Riêng các bị cáo H4 và H6 đã phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[5] Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, biên bản nhận dạng, đối chất; biên bản niêm phong, mở niêm phong, kết luận giám định ma túy…nên đã đủ chứng cứ buộc tội các bị cáo và mức án đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận. Riêng đối với tên Mai Văn K, tuy có hành vi cất giữ “ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0263g, loại Heroin”, nhưng chỉ nhằm mục đích để sử dụng và không có tiền án, tiền sự gì nên chưa đủ yếu tố cấu thành “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 mà bị xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp. Còn người bán ma túy cho bị cáo H1, do không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra còn đang tiếp tục truy xét cho đến khi nào phát hiện được sẽ xử lý sau.
[6] Xét chất ma túy là loại chất kích thích do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và mua bán. Các bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai và vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của các bị cáo H1 và H3 là rất nghiêm trọng, các bị cáo H4 và H6 là nghiêm trọng; đều mang tính chất liều lĩnh, xem thường pháp luật, góp phần làm lan tràn nạn nghiện ngập trong đời sống cộng đồng, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương và có thể là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác; riêng các bị cáo H1 và H3 có nhân thân xấu nên cần phải xử các bị cáo mức án thật nghiêm và tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân của từng bị cáo thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay: các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo H3 có cha là ông Hà Duy B tham gia kháng chiến, bị nhiễm chất độc hóa học và được công nhận thương binh loại A nên cần được xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 (riêng bị cáo H3 thêm khoản 2) Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 và khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015,“Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”; do đó, các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của các bị cáo H1 và H3 thì, tuy 02 bị cáo không ai có nghề nghiệp và điều kiện kinh tế, nhưng do các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích thu lợi nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt bổ sung đối với 02 bị cáo một số tiền nhất định để sung quỹ Nhà nước mới phù hợp; riêng các bị cáo H4 và H6, tàng trữ ma túy chỉ để sử dụng, không ai có nghề nghiệp và điều kiện kinh tế nên không áp dụng.
[8] Về vật chứng: Đối với chiếc xe môtô biển số 60M5-xxxx cùng với chiếc xe môtô biển số 55X7-xxxx mà các bị cáo H3, H1 sử dụng làm phương tiện đi lại lúc bị bắt là do anh Võ Thanh H11, chị Nguyễn Thị Thu H12 đứng tên sở hữu và các anh chị đều không ai có lỗi khi cho các bị cáo mượn xe, Cơ quan điều tra đã thu hồi giao trả lại cho anh H11, chị H12 nên không xét. Còn đối với số tiền 4.000.000 đồng của bị cáo H12, 400.000 đồng của bị cáo H11 (tổng cộng 4.400.000 đồng) là tiền của các bị cáo do phạm tội mà có; 01 cái điện thoại di động hiệu NOKIA, màu xanh dương, có số thuê bao 090687xxxx-Trương Thị Kim H1;
01 cái điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu trắng, có số thuê bao 035684xxxx-Hà Trần H3; 01 cái điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, có số thuê bao 093897xxxx-Lý Quang H6; 01 cái điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu xanh đậm, có số thuê bao 032843xxxx-Nguyễn Xuân Hinh của các bị cáo dùng liên lạc mua bán mua túy; 01 chiếc xe môtô màu nâu, biển số 52L7-xxxx của Lý Quang H6, xe thuộc tình trạng không rõ nguồn gốc; 01 chiếc xe môtô màu nâu, biển số 54N5-xxxx-Nguyễn X mà bị cáo H4 sử dụng làm phương tiện đi lại lúc bị bắt là do anh Khúc Hà T1 đứng tên sở hữu, tuy nhiên do xe không có số khung là thuộc trường hợp không được phép sử dụng lưu thông và anh T1 cũng không yêu cầu giao trả lại nên cần tịch thu tất cả để sung quỹ Nhà nước. Riêng 01 gói niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có dấu vân tay ghi tên Trương Thị Kim H1; 01 gói niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có dấu vân tay ghi tên Trương Thị Kim H1, Thái H10; 01 gói niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có chữ ký ghi tên Hà Trần H3, Phan Tấn H9 (ĐTV); 01 gói niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có chữ ký của Lý Quang H6, Lê Hoàng T2 (NCK); 01 gói niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Xuân H4, Lê Quang N (NCK); 01 gói niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có chữ ký của Mai Văn K, Trần Văn S (NCK) là chất kích thích, Nhà nước cấm sử dụng; 01 bịch nylong của Trương Thị Kim H1; 01 cái hộp nhựa màu hồng của Trương Thị Kim H1 sử dụng chứa đựng ma túy nên cần tịch thu tất cả để tiêu hủy.
[9] Các bị cáo Trương Thị Kim H1, Hà Trần H3, Nguyễn Xuân H4 và Lý Quang H6 phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về căn cứ điều luật và xử phạt:
1.1. Căn cứ vào điểm b, i khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Xử phạt bị cáo Trương Thị Kim H1 10 (mười) năm tù về “Tội mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 08-11-2022.
- Phạt bổ sung bị cáo Trương Thị Kim H1 số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung quỹ Nhà nước.
1.2. Căn cứ vào điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Xử phạt bị cáo Hà Trần H3 08 (tám) năm tù về “Tội mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 08-11-2022.
- Phạt bổ sung bị cáo Hà Trần H3 số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung quỹ Nhà nước.
1.3. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân H4 02 (hai) năm tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 08-11-2022.
1.4. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Lý Quang H6 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 08-11-2022.
2. Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước gồm: Số tiền 4.400.000 (bốn triệu bốn trăm nghìn) đồng; 01 cái điện thoại di động hiệu NOKIA, màu xanh dương, có số thuê bao 090687xxxx-Trương Thị Kim H1; 01 cái điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, màu trắng, có số thuê bao 035684xxxx-Hà Trần H3; 01 cái điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, có số thuê bao 093897xxxx-Lý Quang H6; 01 cái điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu xanh đậm, có số thuê bao 032843xxxx- Nguyễn Xuân Hinh; 01 chiếc xe môtô màu nâu, biển số 52L7-xxxx của Lý Quang H6; 01 chiếc xe môtô màu nâu, biển số 54N5-xxxx-Nguyễn X.
- Tịch thu tiêu hủy gồm: 01 gói niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có dấu vân tay ghi tên Trương Thị Kim H1; 01 gói niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có dấu vân tay ghi tên Trương Thị Kim H1, Thái H10; 01 gói niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có chữ ký ghi tên Hà Trần H3, Phan Tấn H9 (ĐTV); 01 gói niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có chữ ký của Lý Quang H6, Lê Hoàng T2 (NCK); 01 gói niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có chữ ký của Nguyễn Xuân H4, Lê Quang N (NCK); 01 gói niêm phong bên trong có chứa ma túy sau giám định, bên ngoài có chữ ký của Mai Văn K, Trần Văn S (NCK); 01 bịch nylong của Trương Thị Kim H1; 01 cái hộp nhựa màu hồng của Trương Thị Kim H1.
(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm giữ theo Phiếu nhập kho số: NK23/124TAM, ngày 03/4/2023. Riêng số tiền 4.400.000 đồng, đã được Công an quận B gửi vào Kho bạc Nhà nước quận B theo các giấy nộp tiền, chứng từ giao dịch, lệnh thanh toán do Ngân hàng N1-Chi nhánh B2 phát hành cùng ngày 09/12/2022)
3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Các bị cáo Trương Thị Kim H1, Hà Trần H3, Nguyễn Xuân H4 và Lý Quang H6 mỗi người phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Các bị cáo Trương Thị Kim H1, Hà Trần H3, Nguyễn Xuân H4 và Lý Quang H6; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Khúc Hà T1 có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 134/2023/HS-ST
Số hiệu: | 134/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về