Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 110/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 110/2022/HS-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 15 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 67/2022/ TLST - HS ngày 14 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2022/QĐXXST - HS ngày 31 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên Phạm Trung Đ., Giới tính: Nam, Sinh năm: 1993, Tên gọi khác: Không; ĐKHKTT: Ô số Y. Liên khu X. khu nhà ở cán bộ chiến sỹ Cục C.

- Tiểu khu đô thị mới, phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội; Chỗ ở: Không nơi cư trú cố định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Đảng viên (đã bị khai trừ Đảng theo Quyết định số 18-QĐ/UBKT ngày 30 tháng 6 năm 2022 của Ủy ban kiểm tra Đảng ủy công an Thành phố Hà Nội); Con ông Phan Bá Tr., sinh năm: 1956 và bà Phạm Thị Minh H., sinh năm: 1963, Có vợ: Trịnh Tú U., sinh năm: 1996; Có 01 con sinh năm: 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Bắt quả tang ngày 30/10/2021;Tạm giữ: 31/10/2021; Tạm giam: 09/11/2021; Hiện bị cáo đang tạm giam tại Trại tạm giam số I - Công an Thành phố Hà Nội(có mặt)

2. Họ và tên Ngô Thị L.; Giới tính: Nữ; Sinh năm: 2000; Tên gọi khác: Không; ĐKHKTT: Thôn T.3 thị trấn N., huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa; Chỗ ở: Phòng 7xx chung cư số 3.. phố V., phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo:

Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Ngô Đình H2., sinh năm: 1974 và bà Lê Thị X., sinh năm: 1978; Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giữ: 31/10/2021; Tạm giam: 09/11/2021; Hiện bị cáo đang tạm giam tại Trại tạm giam số I - Công an Thành phố Hà Nội(có mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Phạm Thị Minh H. - sinh năm 1963; ĐKHKTT: Ô số Y. Liên khu X. khu nhà ở cán bộ chiến sỹ Cục C. - Tiểu khu đô thị mới, phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt lại như sau:

Khoảng 18 giờ 15 phút ngày 30/10/2021, tổ công tác Công an phường Hàng Bồ đang làm nhiệm vụ trên địa bàn phát hiện Phạm Trung Đ. đang dừng đỗ xe ô tô nhãn hiện Honda Civic màu trắng BKS:51G - 325.xx trước cửa số 36 Hàng Gà, phường Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội có biểu hiện nghi vấn đã tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, Đ. tự nguyện giao nộp cho tổ công tác tại hốc cánh cửa phía trước bên trái có 01 bọc giấy màu trắng bên trong có: 01 túi nilông màu trắng kích thước 4x4 cm chứa 06 viên nén hình tam giác màu cam, 01 túi nilông màu trắng kích thước 3x3 cm chứa tinh thể màu trắng. Tại chỗ, Đ. khai nhận số viên nén và tinh thể màu trắng là ma túy đang mang đi bán kiếm lời. Tổ công tác tạm giữ, niêm phong tang vật và đưa Đ. về trụ sở Công an phường Hàng Bồ để giải quyết.

Tang vật thu giữ của Phạm Trung Đ.: 01 bọc giấy màu trắng bên trong có 02 túi ni lông gồm 01 túi ni lông kích thước 3x3cm chứa tinh thể màu trắng, 01 túi ni lông kích thước 4x4cm chứa 06 viên nén hình tam giác màu cam; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro màu xám, sim số 0975549xxx; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS màu vàng, sim số 0325776645; 01 xe ô tô nhãn hiện Honda Civic màu trắng, BKS: 51G - 325.xx, số khung: LVHFC1668H6122xxx, số máy: L15B8*2122xxx* và 01 chai nhựa nhãn hiệu Lavie bên trong chứa 70ml dung dịch màu vàng. (BL: 53; 55).

Tại Bản Kết luận giám định số 7850/KLGĐ-PC09 ngày 07/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông màu trắng kích thước 3x3 cm là ma túy loại Ketamine, khối lượng 1,375 gam; 06 viên nén hình tam giác màu cam bên trong 01 túi ni lông màu trắng kích thước 4x4 cm là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng 2,724 gam;

01 chai nhựa nhãn hiệu Lavie bên trong chứa 70ml nước tiểu thu giữ của Phạm Trung Đ. ngày 30/10/2021 có ma túy loại MDMA và ma túy loại Ketamine. (BL: 60).

Cơ quan CSĐT - Công an quận Hoàn Kiếm đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Trung Đ. tại phòng 7xx số 3.. phố V., phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Tại thời điểm khám xét có Ngô Thị L. ở nhà.

Tang vật thu giữ của Ngô Thị L.: 01 cân điện tử vỏ màu đen, mặt màn hình màu xanh kích thước khoảng 5x17x22 cm; 01 túi ni lông kích thước khoảng 2x2cm chứa tinh thể màu trắng; 01 hộp màu đỏ bên trong có 01 túi ni lông kích thước khoảng 2x2,5 cm chứa tinh thể màu trắng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu xanh, sim số: 0382396xxx. (BL: 119; 135-136).

Tại Bản Kết luận giám định số 7852/KLGĐ-PC09 ngày 07/11/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông kích thước 2x2cm là ma túy loại Ketamine, khối lượng:

0,147 gam; Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi ni lông kích thước 2x2,5cm là ma túy loại Ketamine, khối lượng : 0,413 gam; 01 cân điện tử màu đen có màn hình màu xanh kích thước 5x17x22 cm có dính ma túy loại Ketamine. (BL: 149).

Tại Cơ quan điều tra, Phạm Trung Đ. khai nhận: Khoảng 16 giờ ngày 30/10/2021, Y. (là bạn xã hội không biết lai lịch, sử dụng số điện thoại 0986973xxx) nhắn tin cho Đ. (sử dụng số điện thoại 0975549xxx) hỏi mua 06 viên ma túy "thuốc lắc" và 01 "chỉ" ma túy Ketamine với giá 6.400.000 đồng, thỏa thuận giao dịch trước cửa số 34 Hàng Gà, phường Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sau đó, Đ. gọi điện thoại cho một phụ nữ tên L2. (không biết lai lịch, sử dụng số điện thoại 0847676xxx) mua 06 viên ma túy "thuốc lắc" và 01 "chỉ" ma túy Ketamine với giá 5.100.000 đồng và hẹn giao ma túy cho bạn gái là Ngô Thị L. tại số 3.. phố V., phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội. L2. bảo Đ. chuyển 21.500.000 đồng vào số tài khoản 190347215xxxxx mang tên Lê Huyền M. tại ngân hàng Techcombank. Đ. đồng ý và bảo L. chuyển 21.500.000 đồng vào số tài khoản trên để trả tiền mua 30 viên ma túy "thuốc lắc" và nửa "uốn" ma túy Ketamine, số ma túy còn lại Đ. sẽ lấy sau. Sau khi L. chuyển khoản, Đ. nhắn tin bảo L. nhận ma túy của L2. giao rồi chờ Đ. về lấy ma túy mang đi bán cho khách tên Y.. Đ. điều khiển ô tô nhãn hiện Honda Civic màu trắng BKS: 51G - 325.xx đến nhà số 3.. phố V. gặp L.. Tại đây, L. đã đưa cho Đ. 01 túi ni lông chứa 06 viên ma túy "thuốc lắc" và 01 túi ni lông chứa 01 "chỉ" ma túy Ketamine. Đ. cất toàn bộ ma túy trên vào gói giấy ăn màu trắng để ở hộc để đồ bên trái ghế lái rồi điều khiển xe ô tô đi bán ma túy cho Y.. Khi đi đến trước cửa số 34 phố Hàng Gà thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt giữ như trên. Nếu bán trót lọt ma túy, Đ. thu lời 1.300.000 đồng, Đ. và L. sẽ cùng ăn tiêu số tiền trên. (BL: 78-87; 89-96).

Quá trình điều tra xác định Phạm Trung Đ. đang là đảng viên Chi bộ Hướng dẫn giao thông, thuộc Đảng bộ bộ phận Đội CSGT số 6, Đảng bộ Phòng Cảnh sát giao thông. Ngày 30/3/2022, Ủy ban kiểm tra - Đảng Ủy Công an TP Hà Nội đã ra Quyết định số 18-QĐ/UBKT thi hành kỷ luật đối với Phạm Trung Đ. quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ đối với Phạm Trung Đ. đảng viên Chi bộ Hướng dẫn giao thông, thuộc Đảng bộ Bộ phận Đội CSGT số 6, Đảng bộ Phòng Cảnh sát giao thông.

Ngô Thị L. khai: Phạm Trung Đ. là bạn trai của L. thỉnh thoảng Đ. đến ở cùng L. tại phòng 7xx số 3.. phố V., phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Khoảng 16 giờ 15 phút ngày 30/10/2021, Đ. nhắn tin qua mạng xã hội zalo với nội dung báo có Y. hỏi mua 06 viên ma túy “thuốc lắc” và 01 “chỉ” ma túy ketamine. L. và Đ. cùng thống nhất bán cho khách với giá 6.400.000 đồng, giao ma túy tại 34 Hàng Gà. Đ. là người trực tiếp liên hệ mua ma túy của L2. với giá 5.100.000 đồng rồi báo với L. nhận ma túy tại nhà số 3.. phố V.. Đ. bảo L. chuyển 21.500.000 đồng vào số tài khoản 190347215xxxxx mang tên Lê Huyền M. tại ngân hàng Techcombank để trả tiền mua 30 viên ma túy thuốc lắc và ma túy Ketamine. L. đã chuyển 21.500.000 đồng từ tài khoản số 158369xxx tại ngân hàng VP bank của mình vào số tài khoản trên. Khoảng 18 giờ cùng ngày, Đ. bảo L. xuống cửa chung cư nhận ma túy. Tại đây, có 01 người đàn ông không quen biết đưa qua khe cửa kéo xếp của chung cư cho L. 01 túi ni lông màu trắng kích thước khoảng 4x4 cm chứa 06 viên nén hình tam giác màu cam là ma túy “thuốc lắc” và 01 túi nilông màu trắng kích thước 3x3 cm chứa tinh thể màu trắng là ma túy ketamine. Đến khoảng 18 giờ 30 phút, Đ. đến chỗ L. mang số ma túy trên đi bán cho Y.. Sau đó, Công an quận Hoàn Kiếm đã tiến hành khám xét khẩn cấp phòng 7xx số 3.. phố V. thu giữ 02 túi ni lông chứa tinh thể màu trắng là ma túy được bạn xã hội (không biết địa chỉ) cho, L. cất giấu để sử dụng; chiếc cân điện tử L. dùng để cân lại ma túy khi sử dụng. Đối với số tiền 21.500.000 đồng Đ. bảo L. chuyển khoản để mua ma túy, L. làm theo lời Đ. bảo, L. không biết cụ thể số lượng ma túy Đ. thỏa thuận mua của L2. như thế nào nhưng theo L. hiểu thì số tiền trên đã trừ đi 5.100.000 đồng tiền mua ma túy ngày 30/10/2021 để bán cho Y., số ma túy còn lại sẽ lấy sau. (BL: 88; 154-176).

Đối với Ngô Thị L. có hành vi cất giấu trái phép 0,56 gam ma túy loại Ketamine mục đích để sử dụng, do khối lượng ma túy không đủ để xử lý hình sự nên ngày 25/3/2022, Công an quận Hoàn Kiếm đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với Ngô Thị L. về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính Phủ với mức phạt 3.500.000 đồng. (BL: 264-265).

Quá trình điều tra thu giữ tin nhắn giữa Phạm Trung Đ. và Ngô Thị L. có nội dung nghi vấn trước đó Đ. và L. đã có hành vi bán ma túy cho đối tượng Y.. Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai, Đ. và L. cùng khai trước đó có thỏa thuận bán ma túy cho Y. nhưng sau đó do không có ma túy nên không bán được cho Y.. Tài liệu điều tra không đủ căn cứ xác định Phạm Trung Đ. và Ngô Thị L. có hành vi nhiều lần mua bán trái phép chất ma túy.

Như vậy, tổng khối lượng các chất ma túy Phạm Trung Đ. và Ngô Thị L. bán trái phép quy đổi theo Nghị định 19/CP của Chính phủ ngày 02/02/2018 là: 2,724 gam MDMA (54,48 %) + 1,375 gam Ketamine (6,875 %) = 61,35% nên hành vi phạm tội của Phạm Trung Đ. và Ngô Thị L. thuộc khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Ngày 22/11/2021, Cơ quan CSĐT - Công an quận Hoàn Kiếm đã có công văn số 5431 đề nghị ngân hàng Techcombank cung cấp thông tin chủ tài khoản, sao kê giao dịch số tài khoản 190347215xxxxx mang tên Khuất Lê Huyền M.. Ngày 16/01/2022, ngân hàng Techcombank có công văn phúc đáp nội dung: Chủ tài khoản số tài khoản 190347215xxxxx là Khuất Lê Huyền M., sinh ngày: 19/10/2001, số chứng minh: 001301021xxx., địa chỉ: Số 5.. phố Tr2., phường Tương Mai, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Căn cứ sao kê giao dịch số tài khoản 190347215xxxxx xác định: Trong ngày 18/10/2021, Phạm Trung Đ. chuyển khoản 02 lần, lần thứ nhất 13.000.000 đồng, lần thứ hai 14.000.000 đồng. Ngày 25/10/2021, Phạm Trung Đ. chuyển khoản 8.000.000 đồng. Ngày 30/10/2021, Ngô Thị L. chuyển khoản 21.500.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Khuất Lê Huyền M. (sinh năm: 2001; ĐKHKTT: tổ 1.. TT Ck..., phường Tân Mai, quận Hoàng Mai, Hà Nội) khai: M. sử dụng số tài khoản 190347215xxxxx tại ngân hàng Techcombank để kinh doanh dịch vụ chuyển tiền qua tài khoản và trả cho người nhận bằng tiền mặt. Khi khách có nhu cầu chuyển khoản sẽ đưa tiền mặt cho M. chuyển khoản đến số tài khoản yêu cầu và ngược lại. Nếu số tiền dưới 10.000.000 đồng thì M. được trả công 50.000 đồng, dưới 50.000.000 đồng thì M. được trả công 100.000 đồng và nếu số tiền lớn hơn thì tiền công sẽ thỏa thuận. Ngày 30/11/2021, có 01 người đàn ông liên hệ với M. qua ứng dụng zalo báo có 21.500.000 đồng chuyển khoản và sau đó đến gặp M. để lấy tiền mặt, M. không nhớ đặc điểm của người đàn ông trên. Ngoài ra, trong ngày 18/10/2021, tài khoản của M. nhận được số tiền 13.000.000 đồng và 14.000.000 đồng; ngày 25/10/2021, tài khoản của M. nhận được số tiền 8.000.000 đồng, những giao dịch trên đều từ việc kinh doanh dịch vụ chuyển nhận tiền nhưng do thời gian đã lâu nên M. không nhớ nội dung cụ thể. M. không quen biết Phạm Trung Đ., Ngô Thị L. và L2.. (BL: 241-252; 261- 263).

Phạm Trung Đ. khai do Đ. vay L2. tiền nên ngày 18/10/2021, Đ. chuyển khoản 02 lần, lần thứ nhất 13.000.000 đồng, lần thứ hai 14.000.000 đồng; ngày 25/10/2021, Đ. chuyển khoản 8.000.000 đồng đều vào số tài khoản 190347215xxxxx của Khuất Lê Huyền M. tại ngân hàng Techcombank để trả nợ L2., không liên quan đến việc mua bán ma túy. Ngày 30/10/2021 là lần đầu tiên Đ. và L. mua ma túy của L2. về để bán kiếm lời.

Cơ quan CSĐT - Công an quận Hoàn Kiếm đã tiến hành cho Phạm Trung Đ., Ngô Thị L. nhận dạng Khuất Lê Huyền M., Đ. và L. không nhận dạng được M.. Tiến hành cho Khuất Lê Huyền M. nhận dạng Phạm Trung Đ., Ngô Thị L., M. không nhận dạng được Đ. và L.. (BL: 97-99; 178-180; 254-259).

Tiến hành kiểm tra tài khoản zalo của Phạm Trung Đ., Ngô Thị L. xác định: không có nội dung liên lạc giữa tài khoản zalo của Phạm Trung Đ., Ngô Thị L. với tài khoản zalo của Khuất Lê Huyền M.. Tiến hành kiểm tra tài khoản zalo của Khuất Lê Huyền M. xác định: không có nội dung liên lạc giữa tài khoản zalo của Khuất Lê Huyền M. với tài khoản zalo của Phạm Trung Đ., Ngô Thị L.. (BL: 100; 177; 260).

Tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ để xác định Khuất Lê Huyền M. liên quan đến hành vi phạm tội của Phạm Trung Đ. và Ngô Thị L. nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Về đối tượng L2. bán ma túy, Đ. khai không biết nhân thân, lai lịch, địa chỉ. Tiến hành thu giữ điện tín, thư tín xác định đứng tên đăng ký thuê bao 0847676xxx là anh Hồ Minh T2. (sinh năm: 1990; ĐKHKTT: số 9xx phố K., phường Khâm Thiên, quận Đống Đa, Hà Nội). Xác minh tại Công an phường Khâm Thiên cung cấp: từ năm 2000, Hồ Minh T2. bán nhà đi khỏi địa phương, hiện không rõ nơi ở hiện tại của Tú. Đối với đối tượng mua ma túy tên Y., Đ. khai không biết nhân thân, lai lịch, địa chỉ. Tiến hành thu giữ điện tín, thư tín xác định đứng tên đăng ký thuê bao 0986973xxx là anh Phùng Công Tuấn V. (sinh năm: 1991; ĐKHKTT: số 7xx phố Tr3., phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội). Anh V. không đăng ký và không sử dụng số điện thoại trên, không quen biết Y. hay Phạm Trung Đ.. Quá trình điều tra không đủ căn cứ xác định anh T2., anh V. liên quan đến hành vi phạm tội của Đ. và L. nên Cơ quan điều tra không xử lý. (BL: 214-238; 212-213; 234-235).

Về đối tượng đàn ông giao ma túy cho L., L. khai không biết tên tuổi, địa chỉ, số điện thoại nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, làm rõ.

Đối với xe ô tô nhãn hiện Honda Civic màu trắng, BKS: 51G - 325.xx, số khung: LVHFC1668H6122xxx, số máy: L15B8*2122xxx*, Đ. khai mượn của mẹ là bà Phạm Thị Minh H. (sinh năm 1963, ĐKHKTT: Lô 8xx LK., khu tập thể Cục CSHS, phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, Hà Nội). Bà H. khai mua chiếc xe ô tô trên của người không quen biết với giá 500.000.000 đồng vào khoảng tháng 5/2021. Bà H. đã trả 300.000.000 đồng và hẹn sau khi nhận được giấy đăng ký xe sẽ trả nốt số tiền còn lại. Sau đó, bà H. không liên lạc được với người bán nữa và cũng không được nhận giấy đăng ký xe. Sau khi mua xe, chị H. đưa cho con trai là Phạm Trung Đ. mượn sử dụng, chị H. không biết Đ. sử dụng xe để mua bán trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra xác định số khung, số máy là số nguyên thủy. Tiến hành tra cứu biển kiểm soát 51G - 325.xx là của xe ô tô nhãn hiệu Honda Civic màu trắng, số khung: MRHFC1670HT030xxx, số máy: L15B72450xxx, đứng tên đăng ký là bà Phạm Thị Th. - địa chỉ: số 41/17 Phố L., phường 15, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh. Tiến hành làm việc tại Công an phường 15, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh cung cấp: nhân khẩu Phạm Thị Th., sinh năm: 1964 có địa chỉ như trên đã đi khỏi địa phương từ tháng 9/2020, không rõ nơi ở hiện tại. Xác minh tại Công ty Honda Việt Nam xác định: Xe ô tô nhãn hiệu Honda Civic, có số khung: LVHFC1668H6122xxx, số máy: L15B8*2122xxx* không trùng khớp với dữ liệu Honda Việt Nam quản lý và lưu trữ, đây không phải xe ô tô do Honda Việt Nam sản xuất hoặc nhập khẩu. Ngày 04/3/2022, Cơ quan CSĐT Công an quận Hoàn Kiếm đã xác minh tại Tổng cục Hải quan và Cục đăng kiểm Việt Nam về việc Xe ô tô nhãn hiệu Honda Civic, có số khung: LVHFC1668H6122xxx, số máy: L15B8*2122xxx* có nằm trong dữ liệu quản lý về phương tiện được nhập khẩu không? Nếu có thì do cá nhân, tổ chức nào khai báo nhập khẩu? Ngày 25/5/2022, Cục Điều tra chống buôn lậu Tổng cục Hải quan có văn bản trả lời “Việc trả cứu thông tin phương tiện vận tải xuất nhập cảnh; Việc tra cứu trên Hệ thống tra cứu phương tiện nhập khẩu trên Cổng Thông tin điện tử Hải quan: Cục Công nghệ thông tin và thống kê hải quan đã tiến hành tra cứu với tiêu chí số khung, số máy của chiếc ô tô như trên nhưng không thấy xuất hiện thông tin. Cơ quan CSĐT - Công an quận Hoàn Kiếm đã xác minh triệt để nguồn gốc xe và chuyển sang Chi cục Thi hành án quận Hoàn Kiếm để Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. (BL: 101- 109).

Bản Cáo trạng số 70/CT-VKS ngày 14/4/2022 Viện Kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm truy tố Phạm Trung Đ. và Ngô Thị L. về tội Mua bán trái phép chất ma túy khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Trung Đ. và Ngô Thị L. khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tham gia phiên tòa luận tội: Qua xét hỏi, thẩm vấn tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Trung Đ. và Ngô Thị L. phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt Phạm Trung Đ. từ 36 (ba mươi sáu) tháng tù đến 42 (bốn mươi hai) tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt Ngô Thị L. từ 42 tháng tù đến 48 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy các bị cáo mua bán, 02 hộp đựng ma túy, 03 sim điện thoại, 01 biển kiểm soát xe ô tô, 01 chai nhựa nhãn hiệu Lavie bên trong có chứa 70ml dung dịch màu vàng, 01 cân điện tử; Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 3 điện thoại di động và 01 xe ô tô.

Bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo nhận có tội, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàn Kiếm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Khoảng 18 giờ 15 phút ngày 30/10/2021, tại trước cửa số 36 Hàng Gà, phường Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội, Phạm Trung Đ. và Ngô Thị L. đang cất giữ trái phép 2,724 gam ma túy loại MDMA và 1,375 gam ma túy loại Ketamine để bán cho khách kiếm lời thì bị bắt quả tang cùng tang vật.

Như vậy có đủ căn cứ xác định bị cáo Phạm Trung Đ. và Ngô Thị L. phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an, làm gia tăng tệ nạn và các tội phạm về ma túy, gây ảnh hưởng tới sự phát triển lành mạnh của con người, hủy hoại sức khỏe, giảm khả năng lao động và là một trong những nguyên nhân gây ra các tội phạm khác.

Các bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ về tác hại của ma túy nhưng vì muốn kiếm tiền nhanh chóng không bằng sức lao động của mình, đã thực hiện hành vi bán ma túy cho người khác để thu lời bất chính. Xét hành vi phạm tội của các bị cáo có tính chất nguy hiểm nên cần áp dụng mức hình phạt tù nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Bị cáo Đ. và bị cáo L. cùng nhau bàn bạc, thống nhất việc mua ma túy và bán lại, nếu thu được lợi cả hai sẽ cùng tiêu xài số tiền trên, nên xác định các bị cáo là động phạm giản đơn, cùng thực hiện hành vi phạm tội với mức độ ngang nhau.

[3] Tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt áp dụng:

Hội đồng xét xử xem xét bị cáo Phạm Trung Đ. và Ngô Thị L. không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, cả hai bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các bị cáo phạm tội lần đầu, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự. Ngoài ra, bị cáo Đ. có thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 bộ luật hình sự: Trong quá trình công tác được tặng thưởng giấy khen hàng năm.

Hội đồng xét xử xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để áp dụng một mức hình phạt tù tương xứng.

[4] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[5] Biện pháp tư pháp:

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy các bị cáo mua bán, 02 hộp đựng ma túy, 03 sim điện thoại, 01 chai nhựa nhãn hiệu Lavie bên trong chứa 70ml dung dịch màu vàng, 01 cân điện tử không còn giá trị sử dụng;

Đối với 01 biển kiểm soát xe ô tô BKS:51G - 325.xx qua xác minh thì biển kiểm soát này không được cấp cho chiếc xe ôtô là tang vật của vụ án mà cấp cho ô tô nhãn hiệu Honda Civic màu trắng, số khung: MRHFC1670HT030xxx, số máy: L15B72450xxx, đứng tên đăng ký là bà Phạm Thị Th. - địa chỉ: số 41/17 Phố L., phường 15, quận 8, thành phố Hồ Chí Minh vì vậy cần tịch thu tiêu hủy chiếc biển kiểm soát đang bị thu giữ.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 3 điện thoại di động là những phương tiện các bị cáo sử dụng để phạm tội.

Đối với xe ô tô nhãn hiệu Honda Civic là tang vật của vụ án, có số khung: LVHFC1668H6122xxx, số máy: L15B8*2122xxx* không trùng khớp với dữ liệu Honda Việt Nam quản lý và lưu trữ, đây không phải xe ô tô do Honda Việt Nam sản xuất hoặc nhập khẩu. Ngày 04/3/2022, Cơ quan CSĐT Công an quận Hoàn Kiếm đã xác minh tại Tổng cục Hải quan và Cục đăng kiểm Việt Nam về việc Xe ô tô nhãn hiệu Honda Civic, có số khung: LVHFC1668H6122xxx, số máy: L15B8*2122xxx* có nằm trong dữ liệu quản lý về phương tiện được nhập khẩu không? Nếu có thì do cá nhân, tổ chức nào khai báo nhập khẩu? Ngày25/5/2022, Cục Điều tra chống buôn lậu Tổng cục Hải quan có văn bản trả lời “Việc trả cứu thông tin phương tiện vận tải xuất nhập cảnh; Việc tra cứu trên Hệ thống tra cứu phương tiện nhập khẩu trên Cổng Thông tin điện tử Hải quan: Cục Công nghệ thông tin và thống kê hải quan đã tiến hành tra cứu với tiêu chí số khung, số máy của chiếc ô tô như trên nhưng không thấy xuất hiện thông tin. Chiếc xe này hiện không thực hiện đúng các quy định của pháp luật về việc đăng ký phương tiện xe cơ giới, hiện không xác định được chủ sở hữu xe. Bà Phạm Thị Minh H. - sinh năm 1963; ĐKHKTT: Ô số Y. Liên khu X. khu nhà ở cán bộ chiến sỹ Cục C. - Tiểu khu đô thị mới, phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội (mẹ đẻ của bị cáo Đ.) nhận là chủ sở hữu xe, mua xe trên mạng không có giấy tờ, không thực hiện đúng các quy định của pháp luật về việc đăng ký đối với chủ sở hữu xe ô tô. Chiếc xe ô tô được xác định là tang vật của vụ án, sử dụng vào việc phạm tội. Vì vậy, cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Phạm Thị Minh H.

- sinh năm 1963; ĐKHKTT: Ô số Y. Liên khu X. khu nhà ở cán bộ chiến sỹ Cục C. - Tiểu khu đô thị mới, phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội đã có ý kiến là đồng ý tịch thu sung công quỹ nhà nước chiếc xe ô tô nêu trên và không có ý kiến gì khác nên không xét.

[6] Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Trung Đ. và Ngô Thị L. phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự;

Điều 65; Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Phạm Trung Đ. 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang 30/10/2021.

Xử phạt: Ngô Thị L. 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 31/10/2021.

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 phong bì niêm phong có chữ ký của Giám định viên Trần Ngọc Chinh, cán bộ CAP Nguyễn Trọng Nghĩa, người chứng kiến Nguyễn Xuân Hợp, Nguyễn Tuấn Anh, đương sự Phạm Trung Đ. và hình dấu của công an phường Hàng Bồ bên trong có 06 viên nén màu cam là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng 2,724 gam (PC 09 - Công an TPHN đã trích lấy mẫu để giám định 0,622 gam, còn lại 2,102 gam); 01 túi ni lông chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Ketamine, khối lượng 1,375 gam (PC 09 - Công an TPHN đã trích lấy mẫu để giám định 0,160 gam, còn lại 1,215 gam);

- 01 hộp giấy kích thước 20x25cm niêm phong có chữ ký của giám định viên Lê Khắc Nam, cán bộ điều tra Phạm Cánh Quân, đương sự Ngô Thị L. và hình dấu của Cơ quan cảnh sát điều tra bên trong có: 01 túi ni lông kích thước khoảng 2x2cm chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Ketamine, khối lượng:

0,147 gam (PC 09 - Công an TPHN đã trích lấy mẫu để giám định 0,015 gam, còn lại 0,132 gam); 01 túi ni lông kích thước khoảng 2x2,5 cm chứa tinh thể màu trắng là ma túy loại Ketamine, khối lượng : 0,413 gam (PC 09 - Công an TPHN đã trích lấy mẫu để giám định 0,029 gam, còn lại 0,384 gam); 01 cân điện tử dính ma túy loại Ketamine - 01 chai nhựa nhãn hiệu Lavie bên trong chứa 70ml dung dịch màu vàng.

- 03 sim điện thoại cũ, đã qua sử dụng, không rõ chất lượng.

- 01 biển kiểm soát 51G-325.xx.

Tịch thu sung vào Ngân sách nhà nước:

- 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone 12 Pro màu xám, đã cũ, tại thời điểm bàn giao tang vật máy không mở được do đó chất lượng, hiện trạng không rõ, không kiểm tra được Imei, Serial trong máy, không rõ nguồn gốc xuất xứ.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS màu vàng, đã cũ, tại thời điểm bàn giao tang vật máy không mở được do đó chất lượng, hiện trạng không rõ, không kiểm tra được Imei, Serial trong máy, không rõ nguồn gốc xuất xứ.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max, màu xanh, đã cũ, tại thời điểm bàn giao tang vật máy không mở được do đó chất lượng, hiện trạng không rõ, không kiểm tra được Imei, Serial trong máy, không rõ nguồn gốc xuất xứ.

- 01 xe ô tô nhãn hiện Honda Civic màu trắng, số khung: LVHFC1668H6122xxx, số máy: L15B8*2122xxx*, xe cũ đã qua sử dụng. Tại thời điểm bàn giao không nổ máy được nên không kiểm tra được chất lượng, hiện trạng, không rõ nguồn gốc xuất xứ.

Số tang vật nêu trên hiện đang lưu trữ tại Chi cục thi hành án dân sự Quận Hoàn Kiếm theo 02 biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 16 tháng 5 năm 2022.

Đối với người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Không xét.

Về án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáp đối với phần liên quan trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 110/2022/HS-ST

Số hiệu:110/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về