Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 08/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

 BẢN ÁN 08/2023/HS-ST NGÀY 03/03/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 02 năm 2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 09/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 02 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. LÊ THỊ BÍCH NG, sinh ngày 01/01/2000 tại Đà Nẵng. Nơi KHKTT: Tổ 06, phường Th, quận K, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông không xác định, con bà Lê Thị Bích T, người nuôi dưỡng: Lê Văn T (chết);

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Bản án số 33/2018/HS-ST ngày 23/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam tuyên phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” (phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi).

Bị can đang bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/8/2022; Có mặt tại phiên tòa.

2. THÂN ĐỨC TH, sinh ngày 29/3/1994 tại Quảng Nam. Nơi cư trú: đường X, phường K, quận C, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Đầu bếp; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thân Đức T (chết), con bà: Đặng Thị X (Sinh năm: 1959, còn sống). Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 10/8/2022; Có mặt tại phiên tòa.

3. LÊ TH H, sinh ngày 05/6/1989 tại Quảng Bình. Nơi cư trú: đường N, phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Đầu bếp; trình độ học vấn:

12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn H (chết) và con bà: Lê Thị L, sinh năm: 1965 (sống). Có vợ: Trịnh Thị Tường V, sinh năm: 1997 và có 01 con sinh năm 2018.

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

Ngày 27/4/2010 Tòa án nhân dân thành phố Huế tuyên phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 81/2010/HSST;

Ngày 26/4/2013 Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ tuyên phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” tại Bản án số 14/2013/HSST Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 24/11/2022; Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1991; Trú tại: đường X, tổ 54, phường K, quận C, TP. Đà Nẵng. Vắng mặt.

+ Anh Lê Th H1, sinh năm 1991; Nơi thường trú: thôn L, xã Th, huyện L , tỉnh Quảng Bình. Nơi cư trú tại: đường 18B, phường B, quận T, TP HCM. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 10/8/2022, Thân Đức Th gọi điện rủ Lê Thanh H cùng nhau sử dụng ma túy. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, Th đến quán cafe tại ngã tư đường L và đường C, phường K, quận Cẩm Lệ gặp H, tại đây Th liên lạc với tài khoản zalo tên “Vô hiệu hóa” của Lê Thị Bích Ng để mua ma túy với giá 300.000 đồng và hẹn giao dịch tại khách sạn A tại đường 30/4, phường B, quận H, sau khi chuyển tiền mua ma túy đến tài khoản Ngân hàng VP Bank, số tài khoản 07854806xx, tên chủ tài khoản Đặng Văn R của Ng thì Th mượn xe mô tô hiệu Honda Air blade gắn biển kiểm soát 73H1-051xx của H để đi lấy ma túy, Th đi đến khách sạn A gặp Ng và nhận một tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng cuốn một gói nilon kích thước (2,5x1)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, đến khoảng 13 giờ 45 phút cùng ngày, khi Th quay lại trước quán cafe mà H đang đợi thì bị lực lượng tuần tra phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng phát hiện bắt quả tang.

Khoảng 14 giờ 15 phút ngày 10/8/2022, tại khách sạn A thuộc phường B, quận H, thành phố Đà Nẵng, khi Lê Thị Bích Ng đang cầm ở tay trái tờ tiền 1.000 đồng cuốn một gói nilon kích thước (2,5x1)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng chuẩn bị giao cho một người tên Kiệt (chưa rõ nhân thân, lai lịch) thì bị phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Đà Nẵng bắt quả tang.

Ngoài ra, quá trình điều tra Ng còn khai nhận, trong tháng 8/2022 đã 02 lần bán ma túy cho người khác với giá từ 300.000 đến 400.000 đồng, cụ thể: Lần 1:

Vào ngày 03/8/2022, Ng bán ma túy cho Lê Thanh H với giá 300.000 đồng, giao nhận ma túy tại đường Đỗ Thúc Tịnh, phường Khuê Trung, quận Cẩm Lệ. Lần 2: Vào ngày 09/8/2022, Ng bán ma túy cho Thân Đức Th với giá 400.000 đồng giao nhận ma túy tại trước khách sạn A.

Tang vật tạm giữ:

- Tạm giữ của Thân Đức Th:

+ Tại túi phía trước, bên phải của quần Th đang mặc thu giữ 01 (một) tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng cuộn tròn, bên trong có 01 gói nilon kích thước (2,5x1)cm chứa chất tinh thể màu trắng, tất cả niêm phong trong phong bì ký hiệu A;

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone, số IMEI 355.835.088.50.35.11, gắn sim 0946.3247xx;

+ 01 (một) xe mô tô hiệu Honda Airblade màu đen mang biển số 73H1- 051xx

 - Tạm giữ của Lê Thị Bích Ng

+ Tạm giữ trên người Ng 01 (một) tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng cuộn tròn, bên trong có 01 gói nilon kích thước (2,5x1)cm chứa chất tinh thể màu trắng, tất cả niêm phong trong phong bì ký hiệu B; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, màu hồng, số IMEI: 352987.109.058.86.91.01, gắn sim 1: 0766.9026xx và sim 2: 0785.4806xx;

+ Tạm giữ trên bàn trong phòng của Ng tại khách sạn A 01 (một) gói nilon kích thước (4x4,5)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 12 gói nilon với nhiều kích thước, được hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, tất cả niêm phong trong bì thư ký hiệu C; 01 (một) cân điện tử; 06 túi nilon kích thước (5x8,5)cm chưa qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, số seri 351522042166726 gắn sim 0702.5586xx và số tiền 5.000.000 đồng.

Theo kết luận giám định số 166/KLMT-KTHS, ngày 16/8/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng xác định chất tinh thể màu trắng niêm phong ký hiệu A là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,153 gam.

Theo kết luận giám định số 168/KLMT-KTHS, ngày 16/8/2022 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng xác định chất tinh thể rắn màu trắng niêm phong ký hiệu B là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,148 gam. Chất tinh thể màu trắng trong túi nilon kích thước (4x4,5)cm được niêm phong kí hiệu C là ma túy loại Ketamin, khối lượng 0,504 gam; toàn bộ chất tinh thể màu trắng trong 12 gói nilon với nhiều kích thước được niêm phong ký hiệu C là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 2,197 gam.

Đối với toàn bộ chất ma túy được niêm phong trong bì ký hiệu A, B,C và toàn bộ vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định; 02 tờ 1.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, gắn sim 0946.3247xx; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu hồng, gắn sim 1: 0766.9026xx và sim 2: 0785.4806xx; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, gắn sim 0702.5586xx; 01 cân điện tử; 06 túi nilon kích thước (5x8,5)cm chưa qua sử dụng và số tiền 5.000.000 đồng đề nghị tiếp tục tạm giữ phục vụ xét xử;

Đối với xe mô tô hiệu Honda Airblade mang biển số 73H1-051.xx qua xác minh là của anh Lê Thanh H1 (Sinh năm: 1991, trú tại: An Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình) đứng tên chủ sở hữu cho Lê Thanh H mượn, anh H1 không biết H sử dụng vào việc phạm tội, do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại xe cho anh H1 là có căn cứ.

Tại bản cáo trạng số 11/CT-VKSCL ngày 16.01.2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Lê Thị Bích Ng về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; truy tố các bị cáo Thân Đức Th, Lê Thanh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố Nhà nước tại phiên toà giữ nguyên quan điểm đã truy tố, đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt Lê Thị Bích Ng từ 08 năm tù đến 09 năm tù; đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt Thân Đức Th, Lê Thanh H mỗi bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

- Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu sung công quỹ nhà nước đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone, gắn sim 0946.3247xx; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu hồng, gắn sim 1: 0766.9026xx và sim 2: 0785.4806xx; 01 cân điện tử;

- Trả cho bị cáo Lê Thị Bích Ng 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, gắn sim 0702.5586xx và số tiền 5.000.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Truy thu sung công quỹ đối với số tiền bị cáo Ng thu lợi bất chính 3 lần bán ma túy là 1.000.000 đồng.

- Tiêu hủy đối với toàn bộ vỏ bao gói mẫu và chất ma túy hoàn trả lại sau giám định, 02 tờ tiền 1.000 đồng và 06 túi nilon kích thước (5x8,5)cm chưa qua sử dụng.

Tại phiên tòa, các bị cáo Lê Thị Bích Ng, Thân Đức Th, Lê Thanh H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố các bị cáo là đúng, thể hiện thái độ thành khẩn khai báo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thu thập đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Cơ quan điều tra Công an quận Cẩm Lệ, Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, Điều tra viên cũng như Kiểm sát viên đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật quy định. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Qua xem xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa, quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định:

Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 10/8/2022, tại khu vực ngã tư đường L và đường C thuộc phường K, quận C, Đà Nẵng, Lê Thị Bích Ng đã có hành vi bán ma túy trái phép cho hai bị cáo Thân Đức Th và Lê Thanh H để sử dụng. Theo kết luận giám định Th và H tàng trữ trái phép 0,153 gam ma túy loại Methamphetamine. Ngoài việc bán ma túy cho Th, H thì Ng còn đang chuẩn bị bán ma túy cho một người tên Kiệt, trọng lượng là 0,148 gam ma túy loại Methamphetamine và trước đó vào các ngày 03/8/2022, 09/8/2022 Ng còn nhiều lần bán ma túy cho người khác sử dụng. Tổng khối lượng ma túy bị cáo Ng mua bán và thu giữ được trong phòng của Ng xác định được là 2,498 gam Methamphetamine và 0,504 gam Ketamin. Hành vi của bị cáo Lê Thị Bích Ng là cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” từ hai lần trở lên theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Hành vi của các bị cáo Lê Thanh H, Thân Đức Th đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như cáo trạng số 11/CT-VKSCL ngày 16.01.2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội.

Xét tính chất, mức độ hành vi của từng bị cáo thì thấy: Bị cáo Lê Thị Bích Ng mua ma túy về chia ra thành nhiều gói nhỏ để bán cho các con nghiện, tổng cộng số ma túy đã bán cho Th, H, đang chuẩn bị bán cho Kiệt và các gói ma túy chưa bán là 2,489 gam Methamphetamine và 0,504 gam Ketamin. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Mức độ, khối lượng ma túy bị cáo mua về để bán cho người nghiện là nhiều, bán nhiều lần, bị cáo chia làm rất nhiều gói ni lông nhỏ và sẽ bán cho nhiều đối tượng gây ảnh hưởng xấu đến đời sống của nhiều người, làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội và công tác đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma túy của thành phố Đà Nẵng. Về nhân thân, bị cáo đã từng bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” khi chưa đủ tuổi 18 tuổi. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ dài nhằm răn đe giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Đối với bị cáo Thân Đức Th, Lê Thanh H là những người nghiện ma túy, thường xuyên mua ma túy về để sử dụng, ngoài lần bị bắt quả tang tàng trữ trái phép 0,153 gam Methamphetamine ngày 10/8/2022 thì Th và H còn mua ma túy của Ng trước đó để sử dụng. Hành vi của các bị cáo Th, H là phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Xét vai trò của bị cáo Th thì thấy bị cáo là người rủ rê bị cáo Lê Th H sử dụng ma túy, bị cáo chủ động liên lạc qua zalo “Vô hiệu hóa” và chuyển tiền để mua ma túy. Bị cáo Th thực hiện hành vi phạm tội với vai trò tích cực hơn nhưng xét về nhân thân bị cáo H đã có 2 lần bị kết án, có nhân thân xấu nên mức hình phạt đối với 2 bị cáo cần phải được xử phạt tương xứng, ngang nhau để đảm bảo có tác dụng cải tạo giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự được Hội đồng xét xử áp dụng cho các bị cáo khi lượng hình. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Đối với đối tượng tên Bình bán ma túy cho Ng; đối tượng tên Đặng Văn R là người mở tài khoản Ng hàng giúp Ng để giao dịch mua bán ma túy; đối tượng tên Kiệt là người liên hệ mua ma túy của Ng vào ngày 10/8/2022, là những đối tượng chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xác minh và xử lý sau là phù hợp.

Đối với Nguyễn Văn H là người giúp Ng thuê phòng khách sạn và có mặt tại phòng lúc Ng bị bắt quả tang, nhưng H không được biết về hành vi phạm tội của Ng nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là có căn cứ.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với xe mô tô hiệu Honda Airblade mang biển số 73H1-051.xx là của anh Lê Thanh H1 (là em ruột của Lê Thanh H) đứng tên chủ sở hữu cho H mượn, anh H1 không biết bị cáo H sử dụng vào việc phạm tội, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra đã xử lý vật chứng trả lại cho chủ sở hữu là có cơ sở nên Hội đồng xét xử không đề cập.

- Đối với toàn bộ vỏ bao gói mẫu và chất ma túy hoàn trả lại sau giám định được niêm phong trong phong bì ký hiệu A, B, C của Phân viện Khoa học hình sự tại Tp Đà Nẵng và 02 tờ tiền 1.000 đồng và 06 túi nilon kích thước (5x8,5)cm chưa qua sử dụng là tang vật phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone, gắn sim 0946.3247xx; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu hồng, gắn sim 1: 0766.9026xx và sim 2:

0785.4806xx và 01 cân điện tử là các tang vật dùng làm phương tiện phạm tội của các bị cáo nên cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, gắn sim 0702.5586xx và số tiền 5.000.000 đồng là tài sản cá nhân của bị cáo Lê Thị Bích Ng không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo Ng, tuy nhiên tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

- Truy thu sung công quỹ nhà nước đối với số tiền bị cáo Ng thu lợi bất chính 3 lần bán ma túy là 1.000.000 đồng.

[7] Án phí hình sự sơ thẩm các bị cáo Lê Thị Bích Ng, Thân Đức Th, Lê Thanh H phải chịu theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị Bích Ng phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

bị cáo Thân Đức Th, Lê Thanh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ: điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự Xử phạt: Lê Thị Bích Ng 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 10/8/2022.

2. Căn cứ : điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự Xử phạt: Thân Đức Th 02 (hai) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 10/8/2022.

3. Căn cứ : điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự Xử phạt: Lê Thanh H 02 (hai) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, ngày 24/11/2022.

4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ: Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ vỏ bao gói mẫu và chất ma túy hoàn trả lại sau giám định được niêm phong trong phong bì ký hiệu A, B, C của Phân viện Khoa học hình sự tại Tp Đà Nẵng và 02 tờ tiền 1.000 đồng và 06 túi nilon kích thước (5x8,5)cm chưa qua sử dụng.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Iphone, gắn sim 0946.3247xx; 01 điện thoại di động hiệu Samsung, màu hồng, gắn sim 1 0766.9026xx và sim 2: 0785.4806xx và 01 cân điện tử.

- Trả lại cho bị cáo Lê Thị Bích Ng: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, gắn sim 0702.5586xx và số tiền 5.000.000 đồng, tiếp tục quy trữ để đảm bảo thi hành án.

- Truy thu sung công quỹ nhà nước đối với số tiền bị cáo Ng thu lợi bất chính 3 lần bán ma túy là 1.000.000 đồng.

Vật chứng hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/01/2023 và giấy nộp tiền vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ tại Ng hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn ngày 17/01/2023)

5. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án:

- Mỗi bị cáo Lê Thị Bích Ng, Thân Đức Th, Lê Thanh H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 03/3/2023.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản sao bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 08/2023/HS-ST

Số hiệu:08/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về