Bản án về tội môi giới mại dâm số 86/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 86/2023/HS-PT NGÀY 05/04/2023 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 05 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2023/TLPT-HS ngày 06/02/2023 đối với bị cáo Võ Thị B do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 35/2022/HS-ST ngày 26/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện C,Thành phố H.

Bị cáo có kháng cáo:

Võ Thị B; tên gọi khác: Út; giới tính: nữ; sinh ngày 15 tháng 01 năm 1960; nơi sinh: tỉnh Quảng Nam; hộ khẩu thường trú: 14/10 Nguyễn Bình, ấp 1, xã P, huyện N, Thành phố H; chỗ ở: tổ 3, ấp N, xã An Thới Đông, huyện C, Thành phố H; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 9/12; con ông Võ Ngọc T (đã chết) và bà Trần Thị N (đã chết); anh, chị, em: có 06 người (lớn nhất sinh năm 1949, nhỏ nhất sinh năm 1970); chồng: ông Hồ Văn A, sinh năm 1960; con: có 03 người (lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 1991; Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: bị tuyên phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Chứa mại dâm” theo bản án số 22/HSST ngày 11 tháng 4 năm 1994 của Tòa án nhân dân huyện N.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02 tháng 6 năm 2022. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 01 tháng 6 năm 2022, Võ Thị B đang ở quán karaoke L thuộc ấp N, xã A, huyện C, Thành phố H thì có 08 người khách gồm: Trương Văn T, Lê Văn C, Trần Văn H, Dương Huy H, Dương Tấn P, Trần Văn T, Phan Văn Đ và Nguyễn Văn H đến quán để uống bia và hát karaoke. Lúc này, B cho các tiếp viên nữ gồm Trần Thị Mỹ T sinh năm 1992, Mai Thị V sinh năm 1999, Võ Thị Mỹ D sinh năm 1997, Lê Thị Bích T sinh năm 1987 và Thạch Thị T sinh năm 2002 vào phòng tiếp khách. Đến khoảng 14 giờ 00 phút cùng ngày, Nguyễn Văn H, Trần Văn T và Phan Văn Đ đặt vấn đề mua dâm lần lượt đối với Mai Thị V, Lê Thị Bích T và Thạch Thị T và cả 03 đều đồng ý nhưng nói phải được sự đồng ý của Võ Thị B. Nên Trương Văn T đi ra ngoài thỏa thuận với Võ Thị B để Võ Thị B đồng ý cho 03 tiếp viên V, T, T đi bán dâm với giá 1.200.000 đồng/người, tổng cộng 3.600.000 đồng. Do không có tiền lẻ nên T đưa cho Võ Thị B 3.700.000 đồng và 4.500.000 đồng (trong đó gồm: 3.000.000 đồng là số tiền dùng để trả trước tiền bia và karaoke và 1.500.000 đồng là số tiền T cho Võ Thị B vì đồng ý cho tiếp viên đi bán dâm). Sau khi nhận tiền, Võ Thị B đồng ý cho 03 tiếp viên V, T, T đi bán dâm cho khách tại nhà nghỉ Q tại số 406/2 Tổ 7, ấp Bình An, xã B, huyện C. Theo thỏa thuận, Võ Thị B sẽ được hưởng lợi từ việc môi giới mại dâm cho 03 tiếp viên, với số tiền 200.000 đồng/người, tổng cộng 600.000 đồng. Đến khoảng 15 giờ 10 phút cùng ngày, Công an huyện C tiến hành kiểm tra tại nhà nghỉ Q thì phát hiện tại các phòng số 6, 7, 8 có 03 cặp nam nữ đang thực hiện hành vi mua bán dâm, cụ thể: Phòng số 6 là Mai Thị V và Nguyễn Văn H; Phòng số 7 là Thạch Thị Tvà Trần Văn T; Phòng số 8 là Lê Thị Bích T và Phan Văn Đ nên tiến hành lập biên bản kiểm tra và mời các đối tượng về trụ sở để làm việc.

Tại cơ quan điều tra, các đối tượng mua dâm, bán dâm đều khai nhận việc mua dâm, bán dâm trong ngày 01 tháng 6 năm 2022 do Võ Thị B đứng ra làm môi giới, thu tiền mua dâm và hưởng lợi từ những người bán dâm. Ngoài ra Trương Văn T, Lê Văn C, Trần Văn H, Dương Huy H, Trần Văn T, Phan Văn Đ và Nguyễn Văn Hg khai nhận trước đây đã nhiều lần đến quán L để mua dâm và các tiếp viên Lê Thị Bích T, Mai Thị V, Thạch Thị T, Trần Thị Mỹ T, Võ Thị Mỹ D, Nay H’Y đều khai nhận trước đây đã nhiều lần bán dâm cho những người mua dâm kể trên. Trong tất cả các lần mua bán dâm trên đều do Võ Thị B đứng ra làm môi giới, thu tiền mua dâm từ Trương Văn T (đại diện cho cả nhóm) để hưởng lợi. Tại cơ quan điều tra, Võ Thị B cũng thừa nhận đã 04 lần đứng ra môi giới cho các tiếp viên của quán bán dâm cho nhóm Trương Văn T để hưởng lợi.

Khám xét quán karaoke L, cơ quan điều tra thu giữ thêm một số vật chứng khác liên quan đến hành vi môi giới mại dâm.

Quá trình điều tra xác định người đứng tên giấy phép kinh doanh quán karaoke L là Hồ Thanh P, sinh năm 1991, hộ khẩu thường trú: 14/10 Nguyễn Bình, ấp 1, xã Phú Xuân, huyện N, Thành phố H là con của Võ Thị B. Pchỉ đứng tên giấy phép kinh doanh, còn hoạt động kinh doanh đều do Võ Thị B quản lý, điều hành. Ngoài ra quá trình điều tra, Nay H’Y và Trần Thị Mỹ T khai nhận trong những lần đi bán dâm cho khách đều do Hồ Văn A, sinh năm 1960, hộ khẩu thường trú: 14/10 Nguyễn Bình, ấp 1, xã Phú Xuân, huyện N, Thành phố H là chồng của Võ Thị B, dùng xe máy chở đến nhà nghỉ. Nhưng qua đối chất Hồ Văn A không thừa nhận có chở Nay H’Y và Trần Thị Mỹ T đi bán dâm, đồng thời xác minh tại các nhà nghỉ cũng không xác định được Hồ Văn A có chở Nay H’Y và Trần Thị Mỹ T đến bán dâm.

Tại cơ quan điều tra, Võ Thị B đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên.

Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ:

- 10 bao cao su, nhãn hiệu Liebe (trong đó có 03 cái đã sử dụng, 07 cái chưa sử dụng).

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu vàng đồng, số hiệu: MGCM2LL/A, số seri: FK3NQOHBG5QH, số IMEI: 354393064659726, gắn sim số: 034536xxxx.

- Tiền Việt Nam: 5.200.00 đồng (trong đó: 3.700.000 đồng là tiền mua dâm; 1.500.000 đồng là tiền T cho Võ Thị B hưởng lợi từ việc môi giới mại dâm).

Tất cả vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự huyện C theo quyết định chuyển vật chứng số 20 ngày 19 tháng 9 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C.

- 01 tờ hóa đơn bán lẻ, có chữ ký và ghi họ tên Võ Thị B (kèm theo hồ sơ vụ án).

Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại tài sản cho các chủ sở hữu đối với vật chứng không liên quan đến hành vi phạm tội, cụ thể như sau:

- Trả lại cho bị can Võ Thị B:

Tiền Việt Nam: 22.670.000 đồng (trong đó: 3.000.000 đồng là tiền bia và karaoke; 19.670.000 đồng là tiền cá nhân không liên quan đến hành vi phạm tội).

05 tờ tiền đô la Mỹ, mỗi tờ mệnh giá 100 USD.

01 cái Ipad mini màu trắng, số hiệu DQVNW8SSFCM8, đã qua sử dụng.

01 điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung J4 màu vàng đồng, số hiệu: SM- J400F/ĐS, số seri: R58K60KZ8XB, gắn sim số: 077297xxxx, đã qua sử dụng.

01 điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung J7 Pro, màu xanh đen, số hiệu:

SM-J730G, số seri: R58K13FCNHW, gắn sim số: 070315xxxx, đã qua sử dụng.

01 điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 12, màu xanh đen, đã qua sử dụng.

01 hộp bao cao su, hiệu Super men, bên trong có 10 bao cao su chưa qua sử dụng.

- Trả lại cho Hồ Văn A:

01 điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu vàng đồng, đã qua sử dụng, số hiệu: NGAW2LL/A, gắn sim số: 078815xxxx.

01 điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone X, màu trắng, đã qua sử dụng, số hiệu MQAK2LL/A, số seri: C39W46ETJCLJ.

01 căn cước công dân tên Hồ Văn A.

- Trả lại cho Trần Văn H: 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max màu vàng đồng do Hưng cho Trần Văn Tiến mượn sử dụng và không biết Tiến sử dụng vào mục đích liên lạc mua dâm.

- Trả lại cho Nay H’Y:

01 điện thoại di động, nhãn hiệu Vivo V2026, màu xanh, đã qua sử dụng.

01 điện thoại di động, nhãn hiệu Oppo, màu đen, đã bị hư hỏng.

01 giấy chứng minh nhân dân, tên Nay H’Y.

- Trả lại cho Mai Thị V: 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Vivo, màu xanh ngọc, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho Thạch Thị T: 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Oppo 11 Pro, màu xanh ghi.

- Trả lại cho Lê Thị Bích T: 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Vivo V2026, màu xanh dương.

Đối với các giấy tờ gồm: 01 bản photo căn cước công dân mang tên Lê Thị Bích T; 03 bản photo giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị T, Mai Thị V, Võ Thị B; 01 căn cước công dân mang tên Lê Minh H; 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Võ Minh L; 01 giấy đăng ký xe biển số 59Z2-xxxx mang tên Phạm Tuấn B; 01 giấy đăng ký xe biển số 62F6-xxxx mang tên Nguyễn Văn H. Qua điều tra xác định đây là những giấy tờ không liên quan đến vụ án, thời điểm hiện tại vẫn chưa tìm được hết chủ sở hữu, do đó khi nào tìm được chủ sở hữu thì cơ quan điều tra sẽ tiến hành xử lý theo quy định.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 35/2022/HS-ST ngày 26/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện C,Thành phố H, đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Võ Thị B phạm tội “Môi giới mại dâm”; Áp dụng điểm d, đ khoản 2 và khoản 4 Điều 328; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Võ Thị B: 05 (năm) năm tù tính từ ngày 02 tháng 6 năm 2022; Phạt tiền bổ sung đối với bị cáo Võ Thị B 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về án phí, xử lý vật chứng và thời hạn kháng cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/12/2022 bị cáo Võ Thị B kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt;

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Thị B khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin miễn tiền phạt bổ sung do tuổi bị cáo đã trên 63 tuổi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H tại phiên tòa phúc thẩm: Cấp sơ thẩm xét xử đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội mức án mà án sơ thẩm tuyên là phù hợp nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, về phần hình phạt tiền bổ sung, do bị cáo là người trên 60 tuổi nên đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Bị cáo không tranh luận và nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra và và tại phiên tòa, bị cáo Võ Thị B thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, từ đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 01 tháng 6 năm 2022, bị cáo Võ Thị B đã có hành vi môi giới 03 tiếp viên tại quán karaoke L do bị cáo quản lý gồm: Mai Thị V, Lê Thị Bích T, Thạch Thị T bán dâm cho Nguyễn Văn H, Trần Văn T, Phan Văn Đ với giá bán dâm là 1.200.000 đồng/người, bị cáo thỏa thuận hưởng lợi từ việc môi giới mại dâm 200.000 đồng/người, thực tế bị cáo đã nhận tổng số tiền 5.200.000 đồng từ nhóm người mua dâm.

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Môi giới mại dâm” theo quy định tại điểm d, đ khoản 2 Điều 328 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017; Án sơ thẩm số 35/2022/HS-ST ngày 26/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện C,Thành phố H đã xét xử bị cáo Võ Thị B về tội danh điều luật như trên là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Và khi lượng hình cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; tuy nhiên bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị kết án về hành vi “Chứa mại dâm” nhưng không hối cải mà vẫn tiếp tục vi phạm qua đó thể hiện thái độ xem thường pháp luật của bị cáo. Do đó, cần xử bị cáo mức án thật nghiêm để giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm; Do vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo;

Về phần hình phạt bổ sung: Do bị cáo đã trên 63 tuổi nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo cũng như miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[3] Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Võ Thị B; Sửa bản án sơ thẩm;

Căn cứ điểm d, đ khoản 2 và khoản 4 Điều 328; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Võ Thị B: 05 (năm) năm tù về tội “Môi giới mại dâm”; Thời hạn tù tính từ ngày 02 tháng 6 năm 2022.

Miễn hình phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo. Bị cáo không phải chịu phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết 0định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.  

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội môi giới mại dâm số 86/2023/HS-PT

Số hiệu:86/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về