Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 452/2019/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 452/2019/HS-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 576/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 4993/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Thế V, sinh năm 1990 tại Đắk Lắk; Thường trú: Tổ A, khu phố B, thị trấn KN, huyện KN1, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở: đường A1, phường BHH, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Môi giới bất động sản; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông TĐV và bà ĐTML; hoàn cảnh gia đình: Có vợ (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không Bị bắt tạm giam từ ngày 04/4/2019 (Có mặt).

Người bị hại:

Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1985 HKTT và chỗ ở: Ấp E, xã LMX, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt) Người bào chữa:

Ông Bùi Quốc T, luật sư của Văn phòng luật sư Quốc T thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Trần Thế V (Có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:

Bà Đào Thu H, luật sư của Văn phòng luật sư Lưu Văn T thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Lê Văn Đ (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thời điểm trước năm 2010, Trần Thế V và anh Lê Văn Đ cùng làm việc tại công ty trách nhiệm hữu hạn V1 tại Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó cả hai nghỉ việc và vẫn giữ mối quan hệ giao lưu bạn bè. Đến năm 2010, anh Đ thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thương mại tin học ĐTC, đặt trụ sở tại đường TH, Phường G, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh. Còn V, ngày 01/01/2015, được tuyển dụng làm nhân viên IT thuộc Phòng công nghệ thông tin của Bệnh viện TĐ, đường PC, phường T, quận TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Khoảng đầu tháng 7/2017, do thiếu nợ của nhiều người và không có tiền tiêu xài, V nảy sinh ý định cung cấp thông tin giả cho anh Đ, về việc Bệnh viện TĐ cần mua sắm trang thiết bị (trong thời gian khoảng 02 tháng thanh toán hết tiền hàng, địa điểm giao hàng trước cổng Bệnh viện TĐ và Trung tâm y tế phường L), việc mua bán này phải thông qua V. Anh Đ tưởng thật nên từ ngày 31/7/2017 đến ngày 11/9/2017, anh Đ cho nhân viên giao hàng cho V gồm: 21 tivi Sony 4K KD-43X8000E, 04 máy vi tính bàn, 03 máy in canon 2900, 06 kệ treo tivi với tổng trị giá 375.320.008 đồng. Sau đó, V liên hệ với các đối tượng thu mua hàng trả góp trên mạng internet (chưa rõ lai lịch) bán toàn bộ số hàng trên với giá 262.727.006 đồng (chỉ bằng 70% giá trị lô hàng), V trả cho anh Đ được 58.884.000 đồng và tiêu xài hết số tiền còn lại.

Khoảng thời gian sau, do V chưa thanh toán hết lô hàng đợt 1 nên anh Đ không đồng ý giao tiếp đơn hàng đợt 2 (theo yêu cầu của V). Lúc này, để tạo lòng tin với anh Đ, V tự tạo 02 tên nickname trên mạng zalo là “A Dung tổ MS” số điện thoại 096X6300 và nhắn tin sang “Út Vương” số điện thoại 093X3747, với nội dung” Bệnh viện quận TĐ mua máy vi tính, máy in, tivi là có thật” và chụp hình ảnh tin nhắn cho anh Đ xem. Do đó, từ ngày 13/9/2017 đến ngày 14/11/2017, anh Đ cho nhân viên giao hàng cho V gồm: 42 tivi Sony 4K KD-43X8000E, 10 tivi Sony 4K KD-55X7000D, 18 máy vi tính bàn, 36 máy in Canon 2900, 05 máy in Canon 6230, 02 máy in kim LQ 310 với tổng trị giá 1.190.964.497 đồng. Sau đó, V tiếp tục liên hệ với các đối tượng thu mua hàng trả góp trên mạng internet (chưa rõ lai lịch) bán số hàng trên với giá 833.675,147 đồng (chỉ bằng 70% giá trị lô hàng), V trả cho anh Đ được 701.236.805 đồng và tiêu xài hết số tiền còn lại.

Đến thời điểm thanh toán không có tiền trả cho anh Đ, V viết giấy nợ, cam kết trả trong 06 tháng đầu là 20.000.000 đồng/01 tháng, sau đó tối thiểu là 25.000.0000 đồng/01 tháng (theo hình thức trả chậm theo lãi suất giảm dần là 0,5%/tháng) và V đã trả cho anh Đ nhiều lần nhưng không có biên nhận tiền. Sau đó, V không có khả năng trả nợ như cam kết. Ngày 04/6/2018, anh Đ đến Bệnh viện TĐ tìm hiểu sự việc, được anh Phan Văn Bảo A2 (trưởng phòng công nghệ thông tin) và chị Nguyễn Thị N (Phó giám đốc bệnh viện) cho biết “V đã tự ý nghỉ việc từ ngày 01/5/2018” nên anh Đ làm đơn tố cáo.

Đến ngày 30/7/2018, Trần Thế V đến Cơ quan điều tra Công an quận Thủ Đức đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Theo kết quả định giá số 2011 ngày 01/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức kết luận: 21 tivi hiệu Sony KD- 43X8000E, 04 máy vi tính bàn, 03 máy in Canon 2900, 06 kệ treo tivi với tổng trị giá 375.320.008 đồng (đơn hàng đợt 1) có tổng trị giá là 340.879.006 đồng.

Theo kết quả định giá số 2012 ngày 01/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức kết luận: 42 tivi Sony 4K KD- 43X8000E, 10 tivi Sony 4K KD-55X7000D, 18 máy vi tính để bàn, 36 máy in Canon 2900, 05 máy in Canon 6230, 01 máy in kim LQ 310 với tổng trị giá 1.190.964.497 đồng (đơn hàng đợt 2). Theo kết quả định giá số 2012 ngày 01/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức có tổng trị giá là 1.082.069.602 đồng.

Vật chứng: 25 hóa đơn chứng từ của Công ty trách nhiệm hữu hạn điện máy GK Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thương mại LT, công ty trách nhiệm hữu hạn thương mại dịch vụ công NG và cửa hàng CH (do anh Đ cung cấp bản photocopy về nguồn gốc lô hàng mua giao cho V).

Về trách nhiệm dân sự: Anh Lê Văn Đ thống nhất theo kết quả định giá tài sản là 1.422.948.608 đồng, trừ số tiền V đã thanh toán là 760.244.000 đồng và yêu cầu bị can V bồi thường số tiền là 662.704.608 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 392/CT-VKS- P2 ngày 25/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Thế V về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội và đề nghị:

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Trần Thế V từ 12 đến 14 năm tù. Buộc bị cáo bồi thường cho người bị hại anh Lê Văn Đ số tiền 602.704.608 đồng. Và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Luật sư Bùi Quốc T bào chữa cho bị cáo Trần Thế V trình bày Luật sư thống nhất với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội là do hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo cùng gia đình đã cố gắng khắc phục hậu quả nên xin Hội đồng xét xử khoan hồng, xử phạt bị cáo với mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt liền kề.

Luật sư Đào Thu H bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại Lê Văn Đ trình bày: Luật sư nhất trí với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo và cũng đồng ý với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà luật sư đồng nghiệp đã nêu. Luật sư chỉ xin Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ để bị cáo sớm trở về hòa nhập với gia đình và xã hội, trả nợ phần tiền còn lại cho người bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đánh giá hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Đánh giá hành vi của các bị cáo:

Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, qua xét hỏi bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố đối với bị cáo. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác mà Cơ quan điều tra thu thập được có trong hồ sơ vụ án xét đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận:

Trong khoảng thời gian từ ngày 31/7/2017 đến ngày 14/11/2017, bị cáo Trần Thế V đã dùng thủ đoạn gian dối, lấy danh nghĩa là nhân viên IT thuộc Phòng công nghệ thông tin của Bệnh viện TĐ, cung cấp thông tin giả về việc Bệnh viện TĐ cần mua sắm trang thiết bị và việc mua bán này phải thông qua V, bị cáo còn tạo nhiều tài khoản ảo trên mạng zalo để lừa dối anh Lê Văn Đ làm anh Đ tin tưởng giao 02 đợt hàng cho V gồm: 63 tivi Sony 4K KD- 43X8000E, 10 tivi hiệu Sony 4K KD-55X7000D, 39 máy in Canon 2900, 05 máy in Canon 6230, 02 máy in kim LQ 310, 22 máy vi tính bàn, 06 kệ treo tivi, rồi sau đó bán lấy tiền chiếm đoạt. Theo kết quả định giá tài sản số 2011 ngày 01/10/2018 và kết quả định giá tài sản số 2012 ngày 01/10/2018 thì tổng trị giá số hàng hóa là 1.422.948.608 đồng. Bị cáo V chỉ thanh toán cho anh Lê Văn Đ số tiền 760.244.000 đồng, còn lại số tiền 662.704.608 đồng bị cáo V chiếm đoạt.

Với hành vi như đã nêu trên của bị cáo V xét thấy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Điều 139 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) là có cơ sở pháp lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Bị cáo V chiếm đoạt của anh Lê Văn Đ với tổng số tiền 662.704.608 đồng nên thuộc trường hợp chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên; là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt theo điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).

Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhưng vì lòng tham, tư lợi mà bị cáo đã cố ý dùng thủ đoạn gian dối, thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của anh Lê Văn Đ, đây là hành vi phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định trong Bộ luật hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến tài sản của người khác, mà còn gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc để giáo dục, răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo: Khi lượng hình cho bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo ra đầu thú để xin hưởng sự khoan hồng của pháp luật, bị cáo đã khắc phục một phần thiệt hại, người bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa, anh Lê Văn Đ yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền bị cáo chiếm đoạt là 662.704.608 đồng. Gia đình bị cáo có khắc phục cho anh Đ số tiền 60.000.000 đồng nên có khấu trừ số tiền này cho bị cáo và anh Đ yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền còn lại. Do đó, cần buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường số tiền còn lại là 602.704.608 đồng.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 28.108.184 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Trần Thế V 09 (chín) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 04/4/2019.

Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015:

Buộc bị cáo Trần Thế V bồi thường cho ông Lê Văn Đ số tiền: 602.704.608 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và đã có đơn yêu cầu thi hành án của người bị hại mà bị cáo không thanh toán số tiền trên thì còn phải trả tiền lãi phát sinh trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả cho người bị hại theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 28.108.184 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Kể từ ngày Cơ quan thi hành án Dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản án phí nêu trên, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại Khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo, người bị hại có mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 452/2019/HS-ST

Số hiệu:452/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về