TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 215/2023/HS-PT NGÀY 18/04/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 4 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 863/2022/TLPT-HS ngày 09 tháng 11 năm 2022 đối với các bị cáo Nguyễn Minh H, Võ Văn Cậm E (N), Đỗ Phú P (T) do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 487/2022/HS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Minh H, sinh năm 1985 tại Bình Dương; Nơi thường trú: tổ x5, khu phố B, phường T1, thị xã T2, tỉnh Bình Dương; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Minh V và bà Nguyễn Thị Kim L; Có vợ và 01 con; Tiền án: không; Tiền sự: Không; Bị tạm giam từ ngày 23/3/2021 (có mặt).
2. Võ Văn Cậm E (tên gọi khác: N), sinh năm 1964 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi thường trú: Khu phố x3, thị trấn C, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi ở: Số x2B đường x376, ấp B, xã T2, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Văn C1 và bà Phan Thị N2; Có vợ và 01 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị tạm giam từ ngày 23/3/2021 (có mặt).
3. Đỗ Phú P (tên gọi khác: T), sinh năm 1974 tại Quảng Nam; Nơi thường trú: 153/20 L, Phường x8, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Xây dựng; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ P3 và bà Võ Thị T4; Có vợ và 02 con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị tạm giam từ ngày 28/7/2022 (có mặt).
- Người bào chữa:
1. Bào chữa cho bị cáo Nguyễn Minh H theo yêu cầu của Tòa án: Luật sư Vũ Thanh H3 – Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt) 2. Bào chữa cho các bị cáo Võ Văn Cậm E (N), Đỗ Phú P (T) theo yêu cầu: Luật sư Nguyễn Minh C4 – Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Bị hại:
1. Ông Trịnh Sơn H6 (vắng mặt) Nơi thường trú: 153A Đ, quận B, thành phố Hà Nội.
2. Công ty Cổ phần thương mại H7, địa chỉ trụ sở: xã E, Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Hữu N8 - Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Lê Quang V9 (vắng mặt) Nơi thường trú: phòng x218 nhà xD2, phường G, quận B, thành phố Hà Nội.
2. Ông Vũ Văn S10 (xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: 26 L, phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng.
3. Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đầu tư Tài chính H11 (vắng mặt) Địa chỉ trụ sở: 69 đường số X7, KDC C Phường X7, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Từ năm 2018 đến năm 2019, Nguyễn Minh H thành lập các Công ty Cổ phần đầu tư xuất nhập khẩu T12 (sau đây gọi tắt là Công ty T12), Công ty Cổ phần Đầu tư tài chính R (sau đây gọi tắt là Công ty R) và Công ty Trách nhiệm hữu hạn đầu tư tài chính H11 (sau đây gọi tắt là Công ty H11), sau đó sử dụng các pháp nhân trên để cùng với Đỗ Phú P, Võ Văn Cậm E và Nguyễn Văn M13 thực hiện 02 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cụ thể:
Vụ thứ 1:
Nguyễn Minh H cùng Đỗ Phú P, Võ Văn Cậm E và Nguyễn Văn M13 chiếm đoạt số tiền 7.486.000.000 đồng của ông Trịnh Sơn H6 - Giám đốc bán hàng khu vực Châu Á Công ty G13:
Công ty T12 thành lập ngày 03/05/2018, có trụ sở tại: số 2/11 P, Phường x15, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh do Nguyễn Minh H làm Chủ tịch Hội đồng quản trị (viết tắt là HĐQT) và thuê Phạm Đình L14 làm Giám đốc, đại diện pháp luật của công ty.
Công ty G13 (viết tắt: Công ty G13) có giấy chứng nhận thành lập của bang Washington ngày 14/8/2015, số nhận dạng doanh nghiệp 603-533-508, trụ sở đặt tại: United State Of American do ông Lê Quang V9 làm Tổng Giám đốc, ông Trịnh Sơn H6 là Giám đốc bán hàng khu vực Châu Á.
Do nhu cầu kinh doanh, ngày 28/8/2019, Công ty G13 ký Hợp đồng mua xăng dầu của Công ty A (trụ sở tại Malaysia) để nhập khẩu về Việt Nam tiêu thụ, theo điều kiện hợp đồng: Trước khi nhận hàng, Công ty G13 phải mở thư tín dụng dự phòng thanh toán (viết tắt: SBLC) với số tiền 30.000.000 USD tại một Ngân hàng. Vì Công ty G13 không đủ tài chính để mở bảo lãnh thư với số tiền trên, do đó qua giới thiệu của Bùi Văn P15 (sinh ngày 20/11/1970; nơi thường trú: 51/2 Đ, khu phố X6, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh), ông Trịnh Sơn H6 và ông Lê Quang V9 trực tiếp gặp Nguyễn Văn M13 trao đổi về nhu cầu mở thư tín dụng dự phòng. Sau đó, Nguyễn Văn M13 liên hệ Nguyễn Minh H, thông báo cho H biết về nhu cầu cần nguồn vốn lớn của ông H6. Cũng như M13, bản thân H và Công ty T12 không có hoạt động sản xuất kinh doanh gì từ khi thành lập và cũng không có khả năng tài chính lớn như nhu cầu của Công ty G13, nhưng vì để gặp được ông H6 và ông V9; H hứa sẽ chia cho M13 0,5% số tiền trên hợp đồng khi Công ty T12 ký hợp đồng với Công ty G13 nếu M13 môi giới thành công. Vì vậy, ngày 23/10/2018, M13 hẹn gặp Bùi Văn P15 và ông Trịnh Sơn H6 tại quán cà phê G trên đường T, quận T. Tại buổi gặp này, Nguyễn Văn M13 đã ngụy tạo thông tin giới thiệu là cán bộ của Ban Kế hoạch Tài chính Trung ương (thực tế M13 chỉ là Hội viên của Ban Kế hoạch tài chính Trung ương Hội Khuyến học Việt Nam là một tổ chức từ thiện) và tự giới thiệu là Phó Giám đốc Công ty T12 do Nguyễn Minh H làm Chủ tịch HĐQT, đây là Công ty sân sau của Ban Kế hoạch tài chính Trung ương nên có khả năng tài chính lớn có thể cho Công ty G13 thuê số dư để thực hiện hợp đồng mua bán dầu. Mặc dù không có khả năng tài chính, nhưng M13 vẫn đề nghị ông H6 ký Hợp đồng tư vấn cho thuê số dư nhằm thỏa thuận mức phí môi giới, với nội dung: “Nguyễn Văn M13 đồng ý cho Trịnh Sơn H6 thuê số tiền 30.000.000 USD để làm đối ứng với mức phí 2,5% và 0,5% phí tư vấn cho cả 02 bên. Số tiền này dùng để mở SBLC tại Ngân hàng HSBC Việt Nam”.
Ngay sau khi ký Hợp đồng trên với ông H6, cùng ngày 23/10/2018, Nguyễn Văn M13 dẫn ông H6 đến trụ sở Công ty T12 và gặp Nguyễn Minh H, Võ Văn Cậm E. Tại buổi gặp này, do đã toan tính, sắp đặt trước hành vi lừa đảo của mình; mặc dù M13, Cậm E không là thành viên quản lý của Công ty T12, M13 chỉ mới biết H và Công ty T12 vào tháng 10/2018, nhưng Nguyễn Minh H vẫn gian dối giới thiệu Nguyễn Văn M13 là Phó Giám đốc Công ty T12, Võ Văn Cậm E là Kế toán trưởng và cho ông H6 xem Quyết định bổ nhiệm Võ Văn Cậm E làm kế toán, Quyết định bổ nhiệm Nguyễn Văn M13 làm Phó Giám đốc phụ trách kinh doanh đề ngày 04/5/2018, Giấy ủy quyền cho Nguyễn Văn M13 ký kết các hợp đồng với đối tác,… Ngoài ra, H còn giả tạo thông tin Công ty T12 có khả năng tài chính lớn, có mối quan hệ với các cơ quan Trung ương, trong vòng 03 ngày sẽ mở tài khoản tại Ngân hàng HSBC cho Công ty G13 và chuyển số tiền 30.000.000 USD vào tài khoản này để bảo lãnh thanh toán cho hợp đồng mua bán dầu. Vì Công ty T12 không có chức năng cho thuê tài chính, nên Nguyễn Minh H đại diện Công ty T12 ký với ông Trịnh Sơn H6 văn bản Hợp tác thỏa thuận kinh doanh, với nội dung: “Công ty T12 đồng ý hợp tác với Công ty G13 và góp số tiền 30.000.000 USD với mức lợi nhuận 1% (số tiền 300.000 USD tương đương 7.017.000.000 đồng), số tiền này dùng để mở SBLC, đảm bảo thực hiện hợp đồng mua dầu trả chậm; yêu cầu ông H6 đặt cọc số tiền 1.500.000.000 đồng, sau khi có SBLC thì thanh toán tiếp 5.517.000.000 đồng”.
Do tin lời H, Cậm E và M13, nên ông H6 đã trao đổi với ông Lê Quang V9 đồng ý hợp tác theo phương án đề nghị của Hiệp và tiến hành đặt cọc số tiền 1.500.000.000 đồng, gồm: đưa tiền mặt 500.000.000 đồng cho Võ Văn Cậm E và chuyển 1.000.000.000 đồng từ tài khoản số 0860114247005 của ông H6 tại Ngân hàng MBBank vào tài khoản số 060015393443, đứng tên Võ Văn Cậm E mở tại Ngân hàng Sacombank. Tuy nhiên, sau 03 ngày ký Hợp tác thỏa thuận kinh doanh và nhận tiền đặt cọc, H không mở tài khoản của Công ty G13 tại Ngân hàng HSBC như thỏa thuận, ngày 26/10/2018, ông H6 liên lạc thì H nói do thủ tục bị trục trặc, đang chờ bổ sung thêm cho phía ngân hàng một số hồ sơ.
Để tiếp tục che đậy hành vi gian dối, Nguyễn Minh H gặp và thỏa thuận với Đỗ Phú P làm giả 01 bản hối phiếu của Ngân hàng HSBC có nội dung thể hiện: “Công ty G13 do ông Lê Quang V9 làm đại diện được cấp vốn số tiền 100.000.000 USD” để H gửi cho ông V9, ông H6. Theo thỏa thuận, sau khi làm xong bản hối phiếu giả, P sẽ được H trả số tiền 400.000 USD tương đương 09 tỷ đồng. Thực hiện theo đề nghị của H, P đã đến cơ sở dịch vụ Internet trong một con hẻm trên đường L, quận G thuê một người đàn ông không rõ lai lịch lên mạng tìm kiếm hình ảnh bản hối phiếu thích hợp rồi tải về và điền thông tin Công ty G13 và ông Lê Quang V9 như H đã cung cấp. Sau khi hoàn thành, P đã trả cho người đàn ông làm ra bản hối phiếu trên số tiền 200.000 đồng, rồi gửi hình ảnh bản hối phiếu giả này cho Nguyễn Minh H để Hiệp gửi cho ông Lê Quang V9 qua phần mềm Zalo. Sau đó, H yêu cầu ông V9, ông H6 tiếp tục thanh toán 01% giá trị hợp đồng (tương đương 7.017.000.000 đồng) để làm chi phí giải ngân tiền và đề nghị ông V9 ký thêm Hợp đồng hợp tác đầu tư để ông H6, ông V9 tin tưởng đưa tiền. Ngày 27/10/2018, ông Lê Quang V9 đại diện Công ty G13 ký Hợp đồng hợp tác kinh doanh số 07/HĐHT với Nguyễn Văn M13 - Chức vụ Phó Giám đốc Công ty T12 với nội dung: “Hai bên cùng nhau hợp tác đầu tư, thương mại trong lĩnh vực năng lượng, tài chính, quy định mức hưởng lợi Công ty T12 hưởng 49%, Công ty G13 hưởng 51%”. Do tin tưởng thông tin Hiệp đưa ra và bản hối phiếu trên là thật nên ông H6, ông V9 đã nhiều lần đưa tiền mặt và chuyển khoản cho Nguyễn Minh H, Nguyễn Văn M13 và Võ Văn Cậm E tổng số tiền 5.986.000.000 đồng. Sau đó, Võ Văn Cậm E rút tiền và chuyển khoản giao lại cho Nguyễn Minh H để được hưởng lợi 300.000.000 đồng, Nguyễn Văn M13 được H hứa cho hưởng 0,5% trên hợp đồng và nhận của ông H6 số tiền 100.000.000 đồng; Đỗ Phú P được hưởng lợi từ H số tiền 1.290.000.000 đồng.
Quá trình điều tra, Nguyễn Minh H đã trả lại cho ông Trịnh Sơn H6 số tiền 1.500.000.000 đồng, còn lại 5.986.000.000 đồng.
Vụ thứ 2:
Chiếm đoạt số tiền 3.377.000.000 đồng của Công ty Cổ phần Thương mại H7 (viết tắt: Công ty H7), do ông Phan Hữu N8 làm Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Đại diện pháp luật, trụ sở tại xã E, Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Công ty Cổ phần Đầu tư Tài chính R (viết tắt: Công ty R), mã số doanh nghiệp:
0315534326, thành lập ngày 28/02/2019, do Nguyễn Minh H làm Chủ tịch Hội đồng quản trị (HĐQT); Võ Văn Cậm E làm cổ đông sáng lập; trụ sở tại số 2 đường H, Phường x2, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Do nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh, Công ty H7 lập thủ tục xin cấp phép đầu tư Nhà máy Sản xuất bao bì giấy carton tại cụm công nghiệp C, huyện C1, tỉnh Đắk Lắk theo Quyết định số 375/QĐ-UBND ngày 12/02/2018, của UBND tỉnh Đắk Lắk. Vì nguồn vốn đầu tư lớn, để đảm bảo đủ kinh phí triển khai dự án, cần huy động, hợp tác nhiều nguồn lực tài chính. Thông qua bà Hoàng Kim O, ngày 20/5/2019, ông N8 đến Văn phòng giao dịch của Công ty R tại địa chỉ số 35 đường số x2, KDC C, Phường x5, quận G. Tại đây, ông N8 gặp Hoàng Đại V11 là nhân viên Công ty R và Nguyễn Minh H - Chủ tịch HĐQT Công ty R. Tại buổi gặp này, H giới thiệu là người đang nắm giữ nguồn tiền rất lớn, có khả năng đầu tư vào dự án của Công ty H7 và cho ông N8 xem bộ hồ sơ gọi là “chứng nhận sở hữu di sản” để tại công ty có nội dung ghi nhận “ông Vũ Văn S10 là người sở hữu 5.000 tấn vàng, trị giá 10 tỷ USD, tại Ngân hàng Citibank of NewYork”, do Đỗ Phú P cung cấp trước đó cho H, và P được H hứa cho hưởng lợi 01 triệu USD và 50.000.000 đồng. Đồng thời, H thông tin với ông N8 là Công ty của H đang làm các thủ tục trình Chính phủ Việt Nam để chuyển số tiền trên về nước đầu tư, và yêu cầu ông N8 để rút được số tiền trên về Việt Nam phải chuẩn bị 130.000 USD đưa cho H làm chi phí mở cổng thanh toán quốc tế và chi phí cho các đơn vị có liên quan. Vì tin tưởng những thông tin Hiệp đưa ra là thật, nên ngày 21/5/2019, ông N8 chuyển 3.050.000.000 đồng (tương đương 130.000 USD) vào tài khoản số 0281001667830, mang tên Nguyễn Minh H, mở tại Ngân hàng Vietcombank - Chi nhánh T. H cam kết trong vòng 04 ngày sẽ mở cổng thanh toán quốc tế, Ngân hàng Nhà nước sẽ giải ngân nguồn tiền từ nước ngoài về.
Ngày 25/5/2019, H viện lý do thủ tục bị trục trặc nên chưa giải ngân nguồn tiền được, cần thêm số tiền 200.000.000 đồng để chi phí ngoại giao với các cơ quan Trung ương, yêu cầu ông N8 cho ứng thêm số tiền trên để rút nhanh nguồn vốn. Vì tin lời H, ngày 26/5/2019, ông N8 chuyển trước số tiền 90.000.000 đồng vào tài khoản số 0281001667830 của Nguyễn Minh H, mở tại Ngân hàng Vietcombank. Thời điểm này, Công ty R bị ông Trịnh Sơn H6 (Giám đốc khu vực châu Á Công ty G13) đến đòi tiền, nên Nguyễn Minh H bỏ trụ sở công ty và thành lập Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đầu tư Tài Chính H11 (viết tắt: Công ty H11) tại: 69 Đường số 7, KDC C, Phường x7, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh do Nguyễn Thị Thanh T14 làm Giám đốc - Đại diện pháp luật và đến tháng 6/2020 đổi sang Phan Trọng H15 làm Đại diện pháp luật, Nguyễn Minh H là Chủ tịch Hội đồng thành viên. Để kéo dài thời gian chiếm đoạt toàn bộ số tiền của ông N8, Hiệp mời ông N8 đến Văn phòng Công ty H11 và giới thiệu kể từ nay mọi phương án kinh doanh hợp tác đầu tư với Công ty H7 do Công ty H11 đảm nhận, làm cho ông N8 tin và tiến hành ký Hợp đồng hợp tác đầu tư số 02/HĐĐT/H11 ngày 28/5/2019 với Nguyễn Minh H - Đại diện Công ty H11, nội dung: Cùng nhau liên doanh hợp tác đầu tư vốn để thực hiện Nhà máy Sản xuất bao bì giấy Carton H7 tại Cụm Công nghiệp C, huyện C1, tỉnh Đắk Lắk, số tiền đầu tư dự kiến là 1.166.500.000.000 đồng (tương đương 50.000.000 USD). Sau khi ký hợp đồng này, ngày 28/5/2019, H tiếp tục viện lý do thiếu chi phí để thực hiện công việc giải ngân tiền, yêu cầu ông N8 ứng thêm 5.000 USD (tương đương 117.000.000 đồng). Ngày 11/6/2019, ông N8 chuyển tiếp 30.000.000 đồng; ngày 13/6/2019 chuyển 60.000.000 đồng cho H. Tổng cộng số tiền ông N8 chuyển theo yêu cầu của H là 3.377.000.000 đồng.
Để che giấu hành vi lừa đảo của mình, Nguyễn Minh H thỏa thuận với Đỗ Phú P ký giả chữ ký của ông Vũ Văn S10 – Giám đốc Công ty H16 tại Giấy ủy quyền ghi ngày 01/7/2019, có nội dung: “Công ty H16 do Vũ Văn S10 đại diện là chủ sở hữu hợp pháp tài khoản tại Ngân hàng Citibank of NewYork trị giá 10.000.000.000 USD, ủy quyền cho Công ty H11 được quyền thay mặt ông S10 tiếp nhận, tham gia và đăng ký đầu tư các dự án, được quyền ký kết các hợp đồng”. Sau khi có được giấy ủy quyền này, Nguyễn Minh H chuyển cho ông N8 xem để làm tin, tạo điều kiện để kéo dài thời gian, không thực hiện lời hứa và chiếm đoạt tiền của ông N8. Nghi ngờ các giấy tờ liên quan đến số tiền 10.000.000.000 USD trên là giả mạo, nên ông N8 yêu cầu H trả lại toàn bộ số tiền đã nhận. Ngày 16/11/2019, Nguyễn Minh H chuyển trả lại 50.000.000 đồng vào tài khoản số 0421003851234 của ông N8, mở tại Ngân hàng Vietcombank và cam kết trả lại toàn bộ số tiền trên trước ngày 16/12/2019, nhưng sau nhiều lần hứa hẹn, Nguyễn Minh H vẫn cố ý chiếm đoạt số tiền còn lại, nên ông N8 đã làm đơn tố cáo Nguyễn Minh H gửi đến Cơ quan điều tra. Trong quá trình điều tra, xác minh vụ án, Nguyễn Minh H đã nhiều lần tự chuyển trả số tiền 3.327.000.000 đồng còn lại vào tài khoản số 0421003851234 của ông N8.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Minh H, Đỗ Phú P, Võ Văn Cậm E và Nguyễn Văn M13 khai nhận hành vi như trên.
Căn cứ Kết luận giám định số 928/KLGĐ-TT ngày 25/6/2020 và Kết luận giám định số 2145/KLGĐ-TT ngày 13/11/2020 (kết luận giám định bổ sung) của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đối với chữ ký của Nguyễn Minh H, hình dấu Công ty H11 trên hợp đồng vay vốn không số đề ngày 20/5/2019 giữa Công ty R và Công ty H7, hợp đồng hợp tác đầu tư số 02/HĐĐT/H11 ngày 28/5/2019, chứng từ rút số tiền 1.300.000.000 đồng tại Ngân hàng Vietcombank - Chi nhánh T, kết luận: Chữ ký trên các tài liệu giám định do Nguyễn Minh H ký ra; Mẫu dấu Công ty H11 trên các tài liệu cần giám định và mẫu dấu từ con dấu thu tại Công ty H11 do cùng một con dấu đóng ra (bút lục 1172-1173).
Căn cứ Kết luận giám định số 1606/KLGĐ-TT ngày 08/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đối với chữ ký, chữ viết của Nguyễn Minh H, Nguyễn Văn M13, hình dấu Công ty T12 trên các hợp đồng tư vấn cho thuê số dư không số giữa Nguyễn Văn M13 và Công ty G13, hợp đồng hợp tác kinh doanh số 07/HDHT ngày 27/10/2018, hợp tác thỏa thuận kinh doanh không số ngày 23/10/2018 giữa Công ty T12 và công ty G13 và các giấy biên nhận nhận tiền so với các tài liệu là biên bản ghi lời khai Nguyễn Văn M13, Nguyễn Minh H và các tài liệu khám xét thu giữ, kết luận: Chữ ký, chữ viết trên các tài liệu giám định do Nguyễn Minh H, Nguyễn Văn M13 ký và viết ra; Mẫu dấu Công ty T12 trên các tài liệu cần giám định và mẫu dấu Công ty T12 trên hồ sơ mở tài khoản Công ty T12, các tài liệu qua khám xét thu được tại trụ sở Công ty H11 do cùng một con dấu đóng ra (bút lục 1223 - 1224).
Căn cứ Kết luận giám định số 3002/KLGĐ-TT ngày 25/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đối với chữ ký mang tên Vũ Văn S10 và con dấu Công ty TNHH Tư vấn Thương mại và Đầu tư H16 (viết tắt: Công ty H16) trên Giấy ủy quyền ngày 01/7/2019 với Công ty H11, kết luận: Chữ ký Vũ Văn S10 trên Giấy ủy quyền ngày 01/7/2019 nêu trên do Đỗ Phú P ký giả và hình dấu tròn Công ty H16 trên tài liệu này do Đỗ Phú P tự khắc dấu đóng ra (bút lục 1255 -1256).
Đối với, Nguyễn Thị Thanh T14 là Giám đốc Công ty H11, đại diện pháp luật, nhưng trong suốt quá trình H tiếp xúc, thực hiện hành vi lừa đảo ông Phan Hữu N8, T14 không biết và không tham gia. Do vậy chưa có căn cứ xác định T14 có vai trò đồng phạm, nên không xử lý.
Đối với, Phạm Đình L14 là Giám đốc Công ty T12: có hành vi ký các Quyết định bổ nhiệm Nguyễn Văn M13 làm Phó Giám đốc Công ty T12 và Võ Văn Cậm E làm Kế toán theo sự chỉ đạo của Nguyễn Minh H, nhưng L15 không biết việc ký các văn bản trên để H cùng Nguyễn Văn M13 và Võ Văn Cậm E thực hiện hành vi lừa đảo ông Trịnh Sơn H6, cũng như Phạm Đình L14 không được hưởng lợi từ hành vi của Nguyễn Minh H, nên chưa có cơ sở để xử lý hình sự đối với Phạm Đình L14.
Đối với, Hoàng Đại V11 và Hoàng Kim O: hành vi dừng lại ở việc làm người môi giới cho ông Phan Hữu N8 và Nguyễn Minh H, nhưng không biết H sử dụng các giấy tờ giả để lừa đảo chiếm đoạt tiền của ông N8, cũng như V11 và O chưa được hưởng lợi từ Nguyễn Minh H, nên hành vi của Hoàng Đại V11 và Hoàng Kim O chưa đủ cơ sở để xử lý hình sự.
Đối với, Vũ Văn S10 là Giám đốc Công ty H16: Sơn không biết và không có chủ trương cho Đỗ Phú P thực hiện việc ký giả chữ ký Vũ Văn S10 và khắc dấu Công ty H16 đóng vào Giấy ủy quyền cho Công ty H11 để Nguyễn Minh H thực hiện hành vi lừa đảo, nên chưa có cở sở để xử lý.
Đối với, Bùi Văn P15: Do hành vi chỉ dừng lại ở việc làm cầu nối, môi giới cho ông Trịnh Sơn H6 và Nguyễn Văn M13 gặp nhau và kể từ đó không tham gia thỏa thuận, giúp sức cho các đối tượng và không được hưởng lợi nên hành vi của Bùi Văn P15 chưa cấu thành tội phạm.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 487/2022/HS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2022 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm b điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 48 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo Nguyễn Minh H);
Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H 18 (mười tám) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/3/2021.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 48 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo Đỗ Phú P);
Xử phạt bị cáo Đỗ Phú P 16 (mười sáu) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/7/2022.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 48 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo Võ Văn Cậm E);
Xử phạt bị cáo Võ Văn Cậm E 13 (mười ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/3/2021.
Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc các bị cáo Nguyễn Minh H, Đỗ Phú P và Võ Văn Cậm E phải trả lại số tiền 5.986.000.000 đồng cho ông Trịnh Sơn H6, cụ thể mỗi bị cáo: Nguyễn Minh H là 2.251.000.000 đồng, Đỗ Phú P là 3.435.000.000 đồng (được khấu trừ số tiền 290.000.000 đồng theo Giấy nộp tiền ngày 13/5/2021 tại Ngân hàng Thương mại cổ phần ngoại thương chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh), Võ Văn Cậm E là 300.000.000 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, - Ngày 05/10/2022 bị cáo Nguyễn Minh H và bị cáo Võ Văn Cậm E kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
- Ngày 05/10/2022 bị cáo Đỗ Phú P kháng cáo kêu oan.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Minh H, Võ Văn Cậm E giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo Đỗ Phú P thay đổi nội dung kháng cáo, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Riêng bị cáo H còn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét số tiền mà bị cáo đã đưa cho những người khác để trả cho bị hại, để giải quyết phần trách nhiệm dân sự cho bị cáo.
Trong phần tranh luận:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo có kháng cáo, kháng cáo trong hạn nên hợp lệ. Tổng số tiền các bị cáo chiếm đoạt là 10.863.000.000 đồng nên bị cáo H phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền này. Trong quá trình điều tra vụ án, bị cáo H đã trả cho ông H6 số tiền 1.500.000.000 đồng, trả hết số tiền đã chiếm đoạt cho công ty T là 3.377.000.000 đồng. Võ Văn Cậm E có hành vi gặp gỡ, đưa ra thông tin giả tạo là kế toán trưởng của công ty T12, sọa thỏa hợp đồng và giúp sức cho H chiếm đoạt số tiền của ông H6 nên bị cáo chịu trách nhiệm với số tiền hơn 7.486.000.000 đồng. Đỗ Phú P có hành vi cung cấp bản hối phiếu giả của ngân hàng HSBC cho H, để H sử dụng làm công cụ, phương tiện lừa đảo ông H6. Bị cáo H khai P hưởng lợi số tiền 3.435.000.000 đồng; bị cáo P cho rằng nhận được 1.200.000.000 đồng từ H là tiền H trả nợ, còn số tiền 2.235.000.000 đồng do Võ Văn Cậm E và Lê Văn H17 chuyển là tiền vay nợ cá nhân. Qua đối chất, không có chứng cứ chứng minh có quan hệ vay mượ nên có cơ sở chứng minh P hưởng lợi số tiền hơn 3 tỷ. Quá trình điều tra P đã nộp 290.000.000 đồng, ngoài ra P còn giúp sức cho H lừa đảo số tiền của công ty H7. Do đó, bị cáo P phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền 10.863.000.000 đồng.
Xét kháng cáo của các bị cáo: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ. Các bị cáo nhận thức được hành vi là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện. Hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác. Trong đó, các bị cáo H và P có 02 lần thực hiện hành vi là tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo H và P có khắc phục hậu quả, bị cáo Cậm E có người thân có công cách mạng là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử các bị cáo mức là có căn cứ. Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết mới nên không có cơ sở giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Minh H phát biểu: Bị cáo H đã khắc phục số tiền hơn 4.000.000.000 đồng. Ngoài ra, số tiền hơn 2.000.000.000 đồng mà bị cáo phải khắc phục thêm theo bản án sơ thẩm nhưng cơ quan điều tra chưa làm rõ số tiền 1 tỷ bị cáo đưa cho Cậm E để đưa cho người thứ ba để trả cho bị hại và số tiền bị cáo đã chuyển qua ngân hàng để trả cho bị hại. Bị cáo phạm tội lần đầu, thật thà khai báo, đã trả hết số tiền chiếm đoạt. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm án cho bị cáo H để bị cáo sớm có cơ hội trở về cuộc sống để khắc phục hậu quả cho bị hại.
Người bào chữa cho các bị cáo Võ Văn Cậm E, Đỗ Phú P phát biểu: Bị cáo Cậm E có các tình tiết giảm nhẹ mà chưa được sơ thẩm xem xét như sau: Ban đầu bị cáo không có ý thức cấu kết bị cáo H để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, thời điểm tháng 9-10/2018 bị cáo thất nghiệp không có việc làm nên bị cáo H gọi bị cáo vào làm việc tại công ty T12, ý thức của bị cáo là để làm nhân viên sai vặt của H. Qua lời khai của bị cáo thể hiện mục đích của bị cáo tham gia vào công ty T12 chỉ là làm công ăn lương. Tại công ty bị cáo không được phân công công việc cụ thể mà chỉ làm theo sự phân công của H, không được hưởng lương tháng định kỳ, mà là do H trả tiền cho bị cáo. Bản chất của sự việc thể hiện vai trò của bị cáo trong vụ việc. Bị cáo H bổ nhiệm bị cáo E là kế toán trưởng là bị cáo H tự bổ nhiệm mà không có ý kiến hay tác động của bị cáo E. Vai trò của bị cáo E khi thực hiện hành vi phạm tội mang tính chất đồng phạm giúp sức. Ngoài ra, cha ruột bị cáo là người có công cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng 2, mẹ được tặng thưởng huân chương hạng 3 là tình tiết tại điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Từ đó, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo.
Đối với bị cáo P: Bị cáo có 2 hành vi cung cấp bản hối phiếu của HSBC và giúp sức cho bị cáo H lừa đảo công ty T11. Việc cho rằng bị cáo P giúp sức cho bị cáo H là không có căn cứ vì khi công ty T11 liên hệ công ty T12 thì bị cáo H trình bày với công ty T11 là có khả năng tài chính để thực hiện, công ty T11 giao cho bị cáo H hơn 3.000.000.000 đồng, nếu xác định hành vi bị cáo H lừa đảo công ty T11 thì hành vi đã hoàn thành từ ngày 21/5/2019, còn hồ sơ cung cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu di sản mà bị cáo P cung cấp cho bị cáo H không phải vì mục đích để giao cho công ty T11 mà là để nhận tiền từ nước ngoài gửi về. Thời điểm bị cáo P giao tài liệu là 01/7/2019 là sau ngày công ty T11 chuyển tiền nên không thể buộc bị cáo P chiếm đoạt số tiền hơn 3 tỷ của công ty T11. Cấp sơ thẩm nhận định bị cáo P cung cấp hối phiếu HSBC cho bị cáo H để buộc bị cáo chịu trách nhiệm đối với toàn bộ số tiền hơn 7.000.000.000 đồng của ông H6 là chưa thỏa đáng vì khi ông H6 đến làm việc bị cáo H thì ông H6 đã chuyển trước cho bị cáo H 1.500.000.000 đồng nên phải trừ số tiền này khi xem xét trách nhiệm của bị cáo. Bản án sơ thẩm xác định bị cáo P được H trả cho hơn 3 tỷ, đây là tổng số tiền bị cáo H, bị cáo Cậm E đã từng chuyển cho bị cáo P, nhưng chưa xem xét số tiền bị cáo P chuyển trả lại cho bị cáo H. Do vậy, cần phải xác định lại số tiền bị cáo P hưởng lợi trừ đi số tiền hơn 1.200.000.000 đồng mà bị cáo P đã chuyển trả lại cho H trước đó. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để giảm hình phạt cho bị cáo P và khấu trừ số tiền mà bị cáo P phải chịu.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Từ năm 2018 đến năm 2019, bị cáo Nguyễn Minh H thành lập các Công ty Cổ phần đầu tư xuất nhập khẩu T12, Công ty Cổ phần Đầu tư tài chính R và Công ty TNHH đầu tư tài chính H11; các công ty này không có nguồn lực về tài chính. Sau đó, bị cáo H sử dụng các pháp nhân trên để cùng với Nguyễn Văn M13, bị cáo Võ Văn Cậm E và bị cáo Đỗ Phú P thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của các bị hại. Trong đó, bị cáo Nguyễn Minh H là người thành lập các công ty, nhằm sử dụng pháp nhân tạo vỏ bọc khi tiếp xúc với các bị hại. Bị cáo H dùng thủ đoạn sử dụng các giấy tờ giả mạo như: Hối phiếu (Bankdraft), chứng nhận sở hữu tài sản, di sản thừa kế có giá trị hàng triệu đến hàng tỉ USD, các hình ảnh số lượng lớn tiền USD và thông tin gian dối có mối quan hệ với các cán bộ cấp cao trong cơ quan nhà nước làm cho ông Trịnh Sơn H6 (Giám đốc bán hàng khu vực Châu Á Công ty G13) và ông Phan Hữu N8 (Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty H7) tin bị cáo H có khả năng tài chính lớn khi ký kết các Hợp đồng hợp tác kinh doanh và chuyển giao tiền gọi là chi phí mở cổng thanh toán để chuyển từ nước ngoài về Việt Nam. Bị cáo Nguyễn Minh H cùng đồng phạm đã chiếm đoạt của ông Trịnh Sơn H6 7.486.000.000 đồng, chiếm đoạt của Công ty H7 do ông Phan Hữu N8 làm Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc số tiền 3.377.000.000 đồng.
Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của các bị cáo:
- Hành vi của các bị cáo Nguyễn Minh H, Võ Văn Cậm E và Đỗ Phú P là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của người khác, trật tự, an toàn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư trong nước. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình nhưng do vụ lợi cá nhân nên đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác, nên cần phải xử lý nghiêm để giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.
- Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá vai trò, mức độ tham gia của từng bị cáo như sau:
Bị cáo H tham gia với vai trò chính, chịu trách nhiệm hình sự đối với toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt của các bị hại là 10.863.000.000 đồng. Trong quá trình điều tra vụ án, bị cáo Nguyễn Minh H đã trả lại cho bị hại ông H6 số tiền 1.500.000.000 đồng và trả hết số tiền đã chiếm đoạt cho đại diện bị hại là ông N8 3.377.000.000 đồng.
Bị cáo Cậm E có hành vi cùng với bị cáo Nguyễn Minh H gặp gỡ, đưa ra thông tin giả tạo là Kế toán trưởng của Công ty T12, soạn thảo hợp đồng và giúp sức cho bị cáo H sử dụng tài khoản cá nhân của mình để tiếp nhận số tiền 6.551.000.000 đồng của ông Trịnh Sơn H6. Sau đó, thực hiện theo yêu cầu của bị cáo H, rút và chuyển tiền sang các tài khoản khác đưa cho bị cáo H chiếm đoạt, trong đó chuyển tiền cho bị cáo P; bị cáo Võ Văn Cậm E được bị cáo H cho hưởng lợi số tiền 300.000.000 đồng. Do đó, bị cáo Võ Văn Cậm E phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền chiếm đoạt là 7.486.000.000 đồng. Bị cáo E chưa khắc phục hậu quả.
Bị cáo P có hành vi cung cấp bản Hối phiếu (Bankdraft) giả của Ngân hàng HSBC cho bị cáo Nguyễn Minh H để Hiệp sử dụng làm công cụ, phương tiện lừa đảo ông Trịnh Sơn H6, chiếm đoạt số tiền 7.486.000.000 đồng. Thực hiện hành vi sai phạm trên, Đỗ Phú P khai nhận được 1.200.000.000 đồng từ Nguyễn Minh H là tiền H trả nợ, còn số tiền 2.235.000.000 đồng do Võ Văn Cậm E, Lê Văn H17 chuyển là tiền vay nợ cá nhân. Còn bị cáo Nguyễn Minh H khai bị cáo P hưởng lợi 3.435.000.000 đồng (trong đó nhận qua chuyển khoản là 2.235.000.000 đồng do Võ Văn Cậm E, Lê Văn H17 chuyển, nhận trực tiếp 1.200.000.000 đồng từ H). Qua đối chất và không có chứng cứ chứng minh quan hệ vay mượn tiền giữa bị cáo H và bị cáo P hay bị cáo P với bị cáo E hay Lê Văn H17. Vì vậy, căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu chuyển khoản tiền đã thu thập trong quá trình điều tra chứng minh được, bị cáo P hưởng lợi số tiền 3.435.000.000 đồng trong lần phạm tội này. Quá trình điều tra, bị cáo P đã nộp số tiền 290.000.000 đồng khắc phục hậu quả. Ngoài ra, bị cáo P còn là đồng phạm giúp sức cho bị cáo H thực hiện trong lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Công ty H7 do ông Phan Hữu N8 làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc số tiền 3.377.000.000 đồng, qua việc cung cấp bộ hồ sơ “Chứng nhận sở hữu di sản” để bị cáo H làm cơ sở để tạo niềm tin, lừa dối bị hại ký kết hợp đồng. Vì vậy, bị cáo P phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng số tiền chiếm đoạt của 02 lần là 10.863.000.000 đồng.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo H đã khắc phục toàn bộ hậu quả đối với bị hại Công ty Cổ phần thương mại H7 với số tiền 3.377.000.000 đồng và khắc phục một phần hậu quả cho bị hại ông Trịnh Sơn H6 với số tiền 1.500.000.000 đồng, còn bị cáo P khắc phục một phần hậu quả với số tiền 290.000.000 đồng so với số tiền mà các bị cáo chiếm đoạt là 7.486.000.000 đồng; hai bị cáo H và Em thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo P tương đối thành khẩn khai báo tại giai đoạn điều tra sau khi Cơ quan điều tra thu thập được chứng cứ biến động dòng tiền giao dịch diễn ra trong 05 tài khoản của bị cáo; các bị cáo đều phạm tội lần đầu; bị cáo E có người thân là người có công với cách mạng đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đối với các tài liệu do bị cáo P nộp để chứng minh là người có công với cách mạng, là người có thành tích xuất sắc trong công tác thì theo quy định tại Luật thi đua khen thưởng năm 2003, sửa đổi, bổ sung năm 2013, bị cáo không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật này nên không xét đến.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo H và Phong có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội nhiều lần được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo E không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Từ những phân tích trên, mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[3] Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định: Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ mới so với cấp sơ thẩm. Những nội dung mà bị cáo P và người bào chữa cho bị cáo P nêu ra đã được Tòa án cấp sơ thẩm nhận định làm rõ. Đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo H đề nghị xem xét số tiền mà bị cáo phải trả lại cho bị hại, Hội đồng xét xử xét thấy: Bản án sơ thẩm nhận định, phân tích là đúng vì số tiền mà bản án tuyên buộc bị cáo trả cho bị hại là nguồn tiền mà các bị cáo đã chiếm đoạt của bị hại. Việc bị cáo H trình bày có đưa tiền cho người thứ 3 để chuyển trả cho bị hại, nhưng bị hại không xác nhận đã nhận tiền bồi thường từ những người này. Do vậy, Hội đồng xét xử xác định đây là giao dịch giữa bị cáo với người thứ 3, không phải với bị hại. Trong trường hợp có chứng cứ chứng minh thì bị cáo có quyền khởi kiện vụ án dân sự hoặc tố cáo cơ quan có thẩm quyền xem xét trách nhiệm hình sự đối với người này.
[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa; Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Minh H, Võ Văn Cậm E (N), Đỗ Phú P (T);
Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 487/2022/HS-ST ngày 29/9/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Minh H, Võ Văn Cậm E (N), Đỗ Phú P (T) phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm b điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 48 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo Nguyễn Minh H);
Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H 18 (mười tám) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/3/2021.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52,Điều 38, Điều 48 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo Đỗ Phú P);
Xử phạt bị cáo Đỗ Phú P 16 (mười sáu) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/7/2022.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 48 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo Võ Văn Cậm E);
Xử phạt bị cáo Võ Văn Cậm E 13 (mười ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/3/2021.
Tiếp tục tạm giam các bị cáo 45 ngày để đảm bảo thi hành án.
2. Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc các bị cáo Nguyễn Minh H, Đỗ Phú P và Võ Văn Cậm E phải trả lại số tiền 5.986.000.000 đồng cho ông Trịnh Sơn H6, cụ thể mỗi bị cáo: Nguyễn Minh H là 2.251.000.000 đồng, Đỗ Phú P là 3.435.000.000 đồng (được khấu trừ số tiền 290.000.000 đồng theo Giấy nộp tiền ngày 13/5/2021 tại Ngân hàng Thương mại cổ phần ngoại thương chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh), Võ Văn Cậm E là 300.000.000 đồng .
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Nguyễn Minh H, Võ Văn Cậm E (N), Đỗ Phú P (T) mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 215/2023/HS-PT
Số hiệu: | 215/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/04/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về