Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 38/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 38/2022/HS-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 3 năm 2022 tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2021/TLST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

TRẦN MINH H, sinh năm 1999 tại Ninh Thuận.

Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Khu phố 2, phường BA, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới Th: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Nguyễn Tuấn H và bà Đỗ Thị Thúy H; vợ, con: chưa có;

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 09/7/2020, bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Chấp hành xong ngày 16/9/2021.

Nhân thân:

Ngày 14/7/2016, bi Ủy ban nhân dân phường BA xử phạt 1.750.000 đồng về hành vi hủy hoại tài sản.

Ngày 02/8/2017, bị Công an phường BA xử phạt 375.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Ngày 04/5/2018, bị Công an thành phố P xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác.

Ngày 20/12/2021, bị Công an phường BA ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/12/2021, chuyển sang tạm giam từ ngày 30/12/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (Có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Anh Lê Trung T, sinh ngày 13/7/2006; Địa chỉ: Thôn PT 3, xã PS, huyện NP, tỉnh Ninh Thuận. (Vắng mặt tại phiên tòa, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

- Đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Lê Trung T, sinh năm 1978 và bà Dương Lê Thị Ngọc L, sinh năm 1982 (Là cha, mẹ của bị hại).

Cùng địa chỉ: Thôn PT 3, xã PS, huyện NP, tỉnh Ninh Thuận.

(Vắng mặt tại phiên tòa, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.)

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Đỗ Thị H- Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Ninh Thuận.

(Có mặt tại phiên tòa).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Huỳnh Trọng T, sinh năm 1979;

Địa chỉ: Khu phố 01, phường MH, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

(Vắng mặt tại phiên tòa, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.)

- Người làm chứng:

+ Anh Võ Quốc H1, sinh ngày 28/11/2007;

Địa chỉ: Thôn PA 2, xã PV, huyện NP, tỉnh Ninh Thuận.

Vắng mặt tại phiên tòa.

+ Ông Bùi Duy Th, sinh năm 1989;

Địa chỉ: Khu phố H, phường ĐV, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

(Vắng mặt tại phiên tòa, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Theo Bản cáo trạng: Vào khoảng 12 giờ 00 ngày 19/12/2021, Trần Minh H ngồi uống nước tại quán Cafe XO, thuộc khu phố 6, phường BA, thành phố P. Lúc này, Võ Quốc H1, sinh năm: 2007, HKTT: thôn PA, xã PV, huyện NP và Lê Trung T, sinh năm: 2006, HKTT: thôn PT, xã PS, huyện NP cũng đi vào quán uống nước. Do có quen biết với H1 nên H kêu H1, T vào ngồi cùng. Khi đang ngồi uống nước thì H mượn điện thoại OPPO RENO 5, màu bạc, ốp lưng màu xanh của T để chơi game rồi H trả lại cho T.

Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, H nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại của T để bán lấy tiền tiêu xài, nên lấy lý do cần gọi điện thoại, H mượn điện thoại OPPO của T, đồng thời H đi bộ ra trước quán và nhờ H1 chở đi mua trà sữa. H1 chở H đến trước cổng trường Nguyễn Văn Trỗi thì H nói H1 đi về quán XO chờ, H lấy trà sữa rồi sẽ quay lại quán sau. Khi H1 đi, H đi bộ đến tiệm điện thoại ở khu vực CB thuộc phường ĐV do anh Huỳnh Trọng T, sinh năm: 1979, HKTT: khu phố 1, phường MH, thành phố P làm chủ, thế chấp điện thoại trên được 2.200.000 đồng. Đến ngày 23/12/2021, H quay lại tiệm điện thoại và bán điện thoại trên với giá 2.800.000 đồng. Số tiền bán điện thoại được, H sử dụng tiêu xài cá nhân hết. Sau khi mua điện thoại của Huấn, ông T đã bán cho một người lạ mặt với giá 3.500.000 đồng. Lúc này tại quán Cafe XO, H1 và T ngồi uống nước, chờ không thấy H quay lại quán trả điện thoại cho T, nên T đã đến Công an phường BA để trình báo sự việc. Ngày 27/12/2021, Trần Minh H đã đến Cơ quan điều tra đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá về tài sản số 116 ngày 29 tháng 12 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Rang-Tháp Chàm kết luận: 01 điện thoại OPPO RENO 5, màu bạc có giá trị là 4.500.000 đồng; 01 ốp lưng điện thoại màu xanh có giá trị là 50.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt vào ngày 19/12/2021 là 4.550.000đ (Bốn triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng).

Cáo trạng số: 24/CT-VKSPR ngày 15/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận đã truy tố bị cáo Trần Minh H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng và không có ý kiến với Bản kết luận định giá tài sản nêu trên.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Bị cáo Trần Minh H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 174; điểm b (bồi thường thiệt hại), i (lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng), s (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi) khoản 1, khoản 2 (đầu thú) Điều 51, điểm i khoản 1 Điều 52 (phạm tội đối với người dưới 16 tuổi) của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo mức án từ 12 đến 15 tháng tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Đồng ý với quan điểm luận tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ theo đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Bị hại cũng không yêu cầu gì thêm đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là sai, rất ăn năn hối cải nên mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa nên có cơ sở xác định: Khoảng 13 giờ 00 phút, ngày 19-12-2021, tại quán cà phê XO thuộc Khu phố 6, phường BA, thành phố P, Trần Minh H đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt một điện thoại Oppo Reno 5, màu bạc của bị hại Lê Trung T có giá trị 4.550.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” do đó Cáo trạng số: 24/CT-VKSPR ngày 15-02-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm đã truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiểm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự là có cơ sở, đúng pháp luật.

[2] Bị cáo là người đã trưởng thành, đủ khả năng nhận thức và điều chỉnh hành vi, biết được việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng do tư lợi nên vẫn cố ý thực hiện việc phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự, trị an tại địa phương nên phải xử phạt bị cáo mức án phù hợp với Th chất, mức độ, hậu quả mà hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra.

[3] Bị cáo phạm tội đối với người dưới 16 tuổi quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xử lý hành chính nhưng không chịu tu sửa, rèn luyện bản thân mà còn thực hiện hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho bị hại; đây là lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trong, đầu thú. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo [4] Về vật chứng của vụ án: Một điện thoại OPPO RENO 5, màu bạc, anh Huỳnh Trọng T đã bán cho một người lạ mặt nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho anh Lê Trung T số tiền 4.550.000 đồng và anh T cùng gia đình không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Đối với Võ Quốc H, khi chở H đi khỏi quán, không biết việc H lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý là có cơ sở.

[7] Ông Huỳnh Trọng T khi mua điện thoại của bị cáo, ông T không biết đây là tài sản do phạm tội mà có, nên Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý hình sự là có căn cứ.

[8] Xét quan điểm của Viện Kiểm sát về việc định tội và định khung hình phạt; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo là phù hợp với Th chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: Khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm i khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Minh H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Trần Minh H 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 27-12-2021.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm; có mặt bị cáo; quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt; quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hợp lệ Bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 38/2022/HS-ST

Số hiệu:38/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về