Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 34/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 34/2021/HS-ST NGÀY 08/04/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 4 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 30/2021/TLST- HS ngày 19 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2021/QĐXXST - HS ngày 26 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Công Kh; Tên gọi khác: Năm; Sinh năm 2002, tại tỉnh Quảng Trị; Nơi cư trú: Khu phố 5, phường H, thành phố Đ H tỉnh Quảng Trị; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12; Con ông: Nguyễn Công Tính - Sinh năm 1960; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con bà: Nguyễn Thị T - Sinh năm: 1966; Nghề nghiệp: Làm nông; Hiện đều trú tại: khu phố 5, phường H, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị; Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con út;Vợ, con: Chưa có;

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 24/3/2017 Công an thành phố Đông Hà ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 70/QĐ-XPHC về hành vi “Trộm cắp tài sản” với hình thức cảnh cáo.

Bị tạm giam từ ngày 15/12/2020 tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Quảng Trị, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

Anh Nguyễn Xuân Th, sinh năm 1990; địa chỉ: Khu phố 2, phường Đ, thành phố ĐH, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

Anh Hoàng Hữu H, sinh năm 1996; địa chỉ: Khu phố H, Phường 2, thành phố Đô H, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Lê Quang Tr, sinh năm 1984; địa chỉ: Khu phố H, Phường 1, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

- Anh Hồ Tuấn A, sinh năm 1984; địa chỉ: Khu phố 6, Phường M, thành phố Đ H, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

- Chị Trương Thị Nh, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn G, xã TĐ, huyện TP, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 02/11/2020 đến ngày 05/11/2020 Nguyễn Công Khánh liên tục thực hiện hai vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đông Hà như sau:

Vụ thứ nhất: Do thiếu tiền tiêu xài và biết anh Nguyễn Xuân Th đang sử dụng chiếc xe mô tô nhãn hiệu Piaggio Liberty, màu đen, BKS 74D1-199.04 (giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên chị Trương Thị Nh - vợ anh T) nên Knảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe mô tô trên để đưa đi tiêu thụ lấy tiền tiêu xài. Để thực hiện ý định của mình, khoảng 19h00phút ngày 02/11/2020, Kh gọi điện thoại giả vờ rủTh đi chơi và tạo cớ không có xe nên nhờ anh Th đến nhà chở. Anh T đồng ý rồi điều khiển xe Piaggio Liberty, màu đen, BKS 74D1-199.04 đến chở Kh. Trên đường đi Khánh nói với anh Th là: “Cho tau mượn xe đi có việc khoảng 05 - 10 phút sẽ quay lại trả”, anh Th tưởng thật nên đồng ý giao xe cho Kh. Sau khi có được xe mô tô 74D1-199.04, Kh điều khiển ngay đến nhà anh Hồ Tuấn A (tên gọi khác Cu Anh, sinh năm 1984; trú tại khu phố 6, phường 1, thành phố Đ H) mượn số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng) và để lại chiếc xe 74D1-199.04 cho anh Tuấn A giữ để làm tin. Có được số tiền trên Kh bỏ trốn và tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 13/11/2020, biết được chiếc xe mô tô của mình đang giữ tại nhà anh Tuấn A nên anh Th đưa 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) đến gặp anh Tuấn A chuộc lại xe và giao nộp cho Cơ quan Công an để xử lý theo quy định của pháp luật.

Vụ thứ hai: Cũng do thiếu tiền tiêu xài và biết anh Hoàng Hữu H có chiếc xe mô tô nhãn hiệu honda Airblade, màu đỏ đen, biển kiểm soát 74C1-262.20 nên Kh nảy sinh ý định chiếm đoạt. Để thực hiện ý định, khoảng 10h45phút ngày 05/11/2020, Kh gọi điện thoại cho anh Hoài giả vờ rủ qua nhà anh Hoàng Ph (sinh năm 1996; trú tại khu phố 3, phường Đông Giang, thành phố Đ H) chơi và anh Hoài đồng ý. Tại nhà anh Phước ngồi chơi được một lúc thì Kh giả vờ nói với anh H là: “Cho tau mượn xe đi có việc khoảng 05 - 10 phút sau sẽ quay lại trả”, anh H tưởng là thật nên đồng ý giao xe cho Kh. Sau khi có được xe mô tô 74C1-262.20, Kh điều khiển ngay đến nhà anh Lê Quang Tr (tên gọi khác Lắc, sinh năm 1984; trú tại khu phố 2, phường 1, thành phố Đông Hà) mượn 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) và để lại chiếc xe trên để làm tin. Có được số tiền trên Kh bỏ trốn và tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 09/11/2020, biết được chiếc xe mô tô của mình đang bị giữ tại nhà của anh Tr, anh H đưa 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) đến gặp anh Tr chuộc lại xe và giao nộp cho Cơ quan Công an để xử lý theo quy định của pháp luật.

- Kết luận định giá tài sản số 120/KLĐGTS ngày 25/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: Trị giá tài sản xe mô tô nhãn hiệu Piaggio Liberty S, màu đen, số máy MA43M5003501, số khung 44110HV102364, BKS 74D1-199.04 tại thời điểm bị chiếm đoạt là 38.675.000 đồng (ba mươi tám triệu sáu trăm bảy mươi lăm nghìn đồng).

- Kết luận định giá tài sản số 121/KLĐGTS ngày 25/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Đông Hà kết luận: Trị giá tài sản xe mô tô nhãn hiệu AIRBLADE, màu đỏ đen, số máy JF46E6063876, số khung 4610EZ138523, BKS 4C1-262.20 tại thời điểm bị chiếm đoạt là 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng);

Tại bản Cáo trạng số 35/CT-VKS-ĐH ngày 19/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị đã truy tố bị cáo Nguyễn Công Khánh, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà giữ nguyên cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm c Khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Công Khánh từ 30 đến 33 tháng tù.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử: Hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đông Hà, Điều tra viên trong quá trình điều tra đã thực hiện đúng theo quy định.

Về thời hạn truy tố Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà chưa thực hiện đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 240 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng đã thể hiện có đủ cơ sở kết luận: Do có ý định chiếm đoạt tài sản từ trước nên vào các ngày 02/11/2020 và 05/11/2020, Nguyễn Công Kh đã có hành vi dùng thủ đoạt gian dối giả vờ mượn xe mô tô nhãn hiệu Piaggio Liberty, BKS 74D1-199.04 của anh Nguyễn Xuân Th và xe mô tô nhãn hiệu honda Airblade, biển kiểm soát 74C1-262.20 của anh Hoàng Hữu H để “đi có việc khoảng 05 đến10 phút sẽ quay lại trả” làm cho anh Th và anh Hoài tưởng giả là thật nên đã giao xe cho Nguyễn Công Kh mượn. Sau đó Khánh đưa hai xe đi cầm cố lấy tiền tiêu xài. Như vậy Kh đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt 02 chiếc xe mô tô của người khác với tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 58.675.000 đồng.

Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự, điều luật có khung hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an địa phương và tâm lý hoang mang, lo sợ trong nhân dân. Bản thân bị cáo có nhân thân xấu, ngày 24/3/2017 bị Công an thành phố Đông Hà ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” nhưng bị cáo thiếu ý tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Trong thời gian ngắn hai lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “Phạm tội hai lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc, tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, sau khi anh Hoàng Hữu H chuộc xe, bị cáo đã tác động gia đình trả cho anh Hoài số tiền 3.000.000 đồng, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo”, “Khắc phục hậu quả” quy định tại điểm s, b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Nhưng phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ tác dụng răn đe và giáo dục.

Ban hành quyết định tạm giam bị cáo thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

- Bị hại anh Nguyễn Xuân Th đã nhận lại tài sản và không yêu cầu Nguyễn Công Kh bồi thường số tiền 2.000.000 đồng mà Thành đưa cho Hồ Tuấn Anh để chuộc lại xe; Anh Hoàng Hữu H đã đưa cho Lê Quang Tr số tiền 5.000.000 đồng để chuộc lại xe, gia đình Nguyễn Công Kh đã trả lại cho anh Hoàng Hữu Hoài số tiền 3.000.000 đồng, số tiền còn lại là 2.000.000 đồng anh Hoài không yêu cầu Khánh bồi thường vì vậy không xem xét.

- Anh Hồ Tuấn A yêu cầu Nguyễn Công Kh bồi thường số tiền 4.000.000 đồng: Thấy rằng theo lời khai nhận của Nguyễn Công Khánh và anh Hồ Tuấn Anh thì Nguyễn Công Kh đã mượn của anh Hồ Tuấn A số tiền 6.000.000 đồng và để lại xe mô tô Piaggio Liberty BKS 74D1-199.04 để làm tin. Sau đó anh Th đã giao cho anh Hồ Tuấn A số tiền 2.000.000 đồng để chuộc lại xe, nay anh Tuấn A yêu cầu Kh trả lại 4.000.000 đồng. Mặc dù hành vi của bị cáo Nguyễn Công Kh là bất hợp pháp nhưng anh Tuấn A không biết về nguồn gốc tài sản vì vậy chấp nhận yêu cầu của anh Hồ Tuấn Anh, buộc Nguyễn Công Kh phải có trách nhiệm trả lại cho anh Hồ Tuấn A số tiền 4.000.000 đồng.

Đối với anh Hồ Tuấn A và anh Lê Quang Tr là người đã cho Nguyễn Công Kh mượn tiền và để lại xe mô tô làm tin nhưng không biết những chiếc xe trên là do phạm tội mà có nên không xem xét trách nhiệm hình sự trong vụ án này.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Công Kh, tên gọi khác: N, phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt: Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 174, Điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Công Kh 30 (ba mươi) tháng tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giam 15/12/2020.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Công Kh có trách nhiệm trả lại cho anh Hồ Tuấn A số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 21, điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí, xử: Buộc bị cáo Nguyễn Công Kh phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 34/2021/HS-ST

Số hiệu:34/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về