Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 23/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 23/2022/HS-ST NGÀY 24/06/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2022/TLST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2022/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1988 tại tỉnh Hà Nam; nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 08; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C và bà Hoàng Thị L; có vợ là Vũ Hoàng Hồng L và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 27/9/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/4/2022 cho đến nay; có mặt.

* Bị hại: Ông Hoàng Minh N, sinh năm 1977; nơi cư trú: Thôn 2, xã C, huyện L, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hoàng Minh Đ, sinh năm 2000; nơi cư trú: Thôn 2, xã C, huyện L, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.

* Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị Y; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu sài cá nhân, Nguyễn Văn T đã nảy sinh ý định đi đến cửa hàng bán xe máy để giả vờ hỏi mua xe và thông qua việc đi thử xe máy sẽ chiếm đoạt để mang đi bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Khoảng 16 giờ ngày 23/4/2022, T đi xe ôm từ thành phố P đến cửa hàng mua bán xe máy M do ông Hoàng Minh N ở thôn 2, xã C, huyện L làm chủ cửa hàng. Khi gặp ông N ở trong cửa hàng, T nói muốn xem và đi thử để mua xe, T đã đi thử lần lượt 04 chiếc xe rồi quay lại trả cho ông N. Lúc này ông N đi sang ngôi nhà đang xây của gia đình mình ở bên cạnh nên giao cho anh Hoàng Minh Đ (là con trai ông N) tiếp tục giao dịch với T. T nói với anh Đ cho xem và đi thử chiếc xe mô tô nhãn hiệu Air Blade, màu đen - đỏ BKS: 90B2 - 586.11, anh Đ đồng ý và cùng T dịch những chiếc xe mô tô ở bên cạnh ra để T dắt chiếc xe mô tô BKS: 90B2 - 586.11. T ngồi lên xe, đề nổ máy và điều khiển xe đi lên thành phố Phủ Lý để tìm cách bán chiếc xe mô tô này. Khoảng 10 phút sau không thấy T quay lại trả xe, anh Đ đã thông báo cho ông N trình báo sự việc với Công an xã C, đồng thời anh Đ cũng lên mạng xã hội đăng bài viết cho một số người cùng kinh doanh xe máy cũ trên địa bàn tỉnh Hà Nam biết về việc này.

Do trước đó đã đọc được bài viết của anh Hoàng Minh Đ trên mạng xã hội nên khoảng 21 giờ cùng ngày, khi Nguyễn Văn T đem chiếc xe mô tô BKS:

90B2 - 586.11 đến cửa hàng mua bán xe máy của bà Nguyễn Thị Yến để bán thì bà Yến yêu cầu T để xe mô tô lại và thông báo cho anh Đ biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Lý Nhân đã tiến hành xác minh và tạm giữ chiếc xe mô tô BKS: 90B2 - 586.11 tại cửa hàng của bà Yến đồng thời triệu tập, đấu tranh với Nguyễn Văn T.

Ngoài ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Lý Nhân còn thu giữ của Nguyễn Văn T: 01 ví giả da màu nâu bên trong có số tiền 10.000 đồng.

Ngày 24/4/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Lý Nhân đã ra Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn T nhưng không phát hiện, thu giữ tài liệu, đồ vật gì có liên quan.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 23/KL-ĐGTS ngày 25/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lý Nhân kết luận: “Giá trị 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Air Blade được mô tả như trên là 23.650.000 đồng”.

Quá trình điều tra: Bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Hoàng Minh N đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không yêu cầu Nguyễn Văn T phải bồi thường thiệt hại gì thêm.

Vật chứng của vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Lý Nhân đã trả lại:

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Air Blade, màu đen - đỏ BKS: 90B2 - 586.11 cùng giấy chứng nhận đăng kí xe mô tô cho ông Hoàng Minh N.

- 01 ví giả da màu nâu bên trong có số tiền 10.000 đồng cho Nguyễn Văn T.

Tại bản cáo trạng số: 25/CT-VKSLN ngày 30/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

- Tại phiên tòa:

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với Nguyễn Văn T. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 24 đến 30 tháng tù. Hình phạt bổ sung không áp dụng. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã được nhận lại tài sản và không yêu cầu Nguyễn Văn T bồi thường thiệt hại nên không xem xét giải quyết. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

+ Bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận hành vi của mình như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân đã truy tố và nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không có ý kiến tranh luận, bào chữa hay khiếu nại gì và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng vắng mặt tại phiên toà nhưng trong hồ sơ vụ án có đầy đủ lời khai của họ được Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[3] Về tội danh: Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên tòa là phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng; lời nhận tội của bị cáo còn được chứng minh bởi biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp, vật chứng vụ án thu được và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ ngày 23/4/2022, tại cửa hàng mua bán xe máy Minh N do ông Nguyễn Minh N ở thôn 2, xã C, huyện L, tỉnh Hà Nam làm chủ cửa hàng, Nguyễn Văn T bằng thủ đoạn gian dối giả vờ hỏi mua xe, đi thử chiếc xe mô tô nhãn hiệu Air Blade, BKS: 90B2 - 586.11 có giá trị 23.650.000 đồng, sau đó chiếm đoạt, đi tìm nơi bán để lấy tiền tiêu sài cá nhân thì bị phát hiện bắt giữ.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn T đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Quan điểm kết tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đối với bị cáo đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu (ngày 27/9/2013, bị Tòa án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”) nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân, nay lại tiếp tục phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.” - Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của bản thân; bị cáo có bố đẻ là thương binh hạng 4/4, được tặng Kỷ niệm chương cựu chiến binh và nhiều Huy chương kháng chiến - đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

Trên cơ sở đánh giá tính chất của vụ án, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Xét thấy bị cáo là người có nhân thân xấu và ngày 12/5/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự nên cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có thể giáo dục, cải tạo bị cáo, bảo đảm an ninh trật tự phòng ngừa tội phạm nói chung. Tuy nhiên, khi áp dụng hình phạt xét thấy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo yên tâm chấp hành án, sớm hoà nhập cộng đồng xã hội.

- Về hình phạt bổ sung: Xét điều kiện, hoàn cảnh thực tế của bị cáo nên Hội đồng xét xử không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo theo quy định tại Điều 35 và khoản 5 Điều 174 Bộ luật hình sự.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Về các vấn đề khác: Quá trình điều tra Nguyễn Văn T khai: Ngày 19/4/2022 T mượn chiếc xe mô tô BKS: 14X1 - 432.70 của anh Hà Đăng T, sinh năm 1991; trú tại: Khu 5, phường H, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Sau đó mang bán cho anh Phạm Văn H với giá 27.000.000 đồng. Ngày 12/5/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được thực hiện theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/4/2022.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/1016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 23/2022/HS-ST

Số hiệu:23/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lý Nhân - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về