Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 184/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 184/2022/HS-PT NGÀY 14/04/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 538/2021/HSPT ngày 05 tháng 11 năm 2021. Do có kháng cáo của bị cáo Lương Ái N đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2021/HSST ngày 28/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh B.

Bị cáo có kháng cáo:

- Họ và tên: LƯƠNG ÁI N, sinh năm 1987; tại C; Nơi ĐKHKTT: Khóm 7, Phường 8, thành phố C, tỉnh C nơi cư trú: Khóm 10, Phường 1, thành phố B, tỉnh B; nghề nghiệp: Mua bán; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Hoàng B, sinh năm 1963 và bà Đoái Thanh N, sinh năm 1958; bị cáo có chồng tên Nguyễn Khánh L, sinh năm 1988 và 01 người con, sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 20/6/2020 (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo: Huỳnh Kim M là Luật sư của Văn phòng Luật sư Huỳnh Kim M, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh B (có mặt).

(Trong vụ án còn có các bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập đến phiên tòa phúc thẩm).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ năm 2016, Lương Ái N mở Shop kinh doanh quần áo may sẳn nhưng kinh doanh thua lỗ. Từ tháng 3 năm 2018, Lương Ái N cùng gia đình thuê phòng tại nhà trọ G thuộc khóm 10, phường 1, thành phố B, tỉnh B sinh sống và sử dụng mạng facebook bán hàng online (quần, áo may sẳn). Do cần tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân, Lương Ái N nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của người khác. N đưa thông tin có nơi bán sỉ quần áo may sẳn giá rẻ, được khuyến mãi và có khách hàng đặt mua, kêu gọi nhiều người góp vốn mua, bán lại chia lợi nhuận cao. Và mặc dù, không có hợp đồng mua bán với các Công ty cung cấp quần áo may sẳn; không có nhà kho chứa hàng và không có khách hàng hợp tác mua bán; nhưng để tạo lòng tin cho người khác, Lương Ái N đã sử dụng nhiều sim điện thoại tạo ra nhiều tài khoản và nhóm chat trên mạng xã hội Zalo; sau khi tạo lập, Lương Ái N sử dụng các tài khoản và nhóm zalo này, đưa thông tin không có thật; sao chép, tạo lập hóa đơn, chứng từ chuyển khoản không có thật về quan hệ và kết quả mua bán; ghi các đơn bán hàng không có thật vào sổ, cung cấp cho các bị hại; đồng thời, dùng tài khoản số 070101485631 của Lương Lê N (em ruột của Ái N) mở tại Ngân hàng Sacombank; sử dụng dịch vụ Internet Banking (bằng số điện thoại của Lương Ái N) thực hiện các giao dịch chuyển tiền vào tài khoản của người góp vốn để họ tin tưởng có việc giao dịch mua bán thật.

Sau nhiều lần giao tiền cho Lương Ái N nhưng không thấy hàng hóa (quần, áo may sẳn), đến đầu tháng 6 năm 2020, nghi ngờ Lương Ái N gian dối chiếm đoạt tiền góp vốn nên Đường Thị Ngọc T nhiều lần yêu cầu cho xem hàng hóa (quần, áo may sẳn) và trả tiền đã góp vốn. Do không có hàng hóa (quần, áo may sẳn) và không có tiền trả cho T, Lương Ái N nhờ Lương Lê N tạo ra kiện hàng, chụp ảnh gửi cho T và nói có hàng hóa (quần, áo may sẳn) trong kho tại C; Và nhờ Đoái Hoàng Phước và Trần Thị Cẩm L nghe cuộc gọi từ Đường Thị Ngọc T hứa hẹn việc cho xem hàng (quần, áo may sẳn) và trả tiền góp vốn cho Đường Thị Ngọc T. Đến ngày 18/6/2020 Lương Ái N thừa nhận hành vi gian dối chiếm đoạt tiền với Đường Thị Ngọc T và đến Công an phường 1, thành phố B đầu thú.

Quá trình điều tra chứng minh được, với động cơ, mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác; bằng các thủ đoạn trên, trong khoảng thời gian từ tháng 7/2018 đến tháng 4/2020, Lương Ái N đã chiếm đoạt tiền của nhiều người, cụ thể như sau:

Đối với Đường Thị Ngọc T: Trong khoảng thời gian từ ngày 27/8/2018 đến ngày 09/03/2020, Đường Thị Ngọc T đã chuyển tiền góp vốn cho Lương Ái N thông qua chuyển khoản Ngân hàng và giao tiền mặt, số tiền 1.958.500.000đ. Ngoài ra, trước đó để được Đường Thị Ngọc T tin tưởng cho vay tiền; vào khoảng tháng 7/2018, Lương Ái N tự tạo hợp đồng góp vốn (ghi ngày 20/06/2018), về việc mua phần mềm quảng cáo VFP Pro - Freecode với Trần Thị T giá trị 126.000.000đ. T đồng ý cho N vay số tiền 20.000.000đ, lãi suất 05%/tháng. Sau khi nhận tiền, N tiếp tục đưa ra thông tin bà Phương bán phần mềm quảng cáo và rủ T góp vốn mua phần mềm quảng cáo trên, hàng tháng lợi nhuận chia đôi. N cho xem Hợp đồng, T đồng ý góp vốn số tiền 55.000.000 đồng nên tiếp tục đưa cho N 35.000.000 đồng, trong đó dùng tiền đã cho vay trước đó góp vốn 20.000.000 đồng và đưa thêm 35.000.000 đồng.

Đối với Đường Thị Mỹ Q: Khoảng cuối năm 2018, Lương Ái N thông qua Đường Thị Ngọc T quen biết với Đường Thị Mỹ Q (tên thường gọi là N, em ruột của T); với thủ đoạn như trên, trong khoảng thời gian từ ngày 19/12/2018 đến ngày 27/9/2019, Đường Thị Mỹ Q thông qua Đường Thị Ngọc T nhiều lần chuyển cho N số tiền là 976.000.000 đồng.

Đối với Định Thị A: Vào khoảng tháng 01/2020, Lương Ái N nói với Q có lô hàng quần áo giảm giá, lô hàng giá 100.000.000 đồng, kêu Q góp vốn 60.000.000 đồng. Do không có tiền, Q rủ Đinh Thị A (Ảnh mẹ của Q) góp vốn, Ảnh đồng ý và giao cho Lương Ái N 60.000.000 đồng; Đến ngày 17/02/2020, Lương Ái N tiếp tục nói với Q có lô hàng quần áo giảm giá, lô hàng giá 90.000.000 đồng, kêu Q góp vốn 49.000.000 đồng; Q rủ Đinh Thị A tiếp tục góp vốn, Ảnh đồng ý và giao cho Lương Ái N 49.000.000 đồng.

Đối với Giang Ngọc T: Lương Ái N quen biết Giang Ngọc T là quản lý nhà trọ Gia Bảo và nhiều lần vay của T và đã trả xong; với thủ đoạn gian dối mua bán sỉ quần áo may sẳn giá rẻ, được khuyến mãi, Lương Ái N kêu T góp vốn, N đặt mua hàng để hưởng lợi nhuận cao; T đồng ý, trong khoảng thời gian tháng 12/2018 đến tháng 02/2020 Giang Ngọc T nhiều lần chuyển cho Lương Ái N số tiền 572.850.000 đồng thông qua chuyển khoản Ngân hàng và giao tiền mặt.

Đi với Trần Văn M: Khoảng tháng 4/2020, Lương Ái N đưa thông tin có nơi bán sỉ quần áo may sẳn giá rẻ, được khuyến mãi và có khách hàng đặt mua; kêu M góp vốn và M đồng ý, trong khoảng thời gian từ ngày 27/3/2020 đến 30/4/2020 Trần Văn M nhiều lần chuyển cho Lương Ái N số tiền 95.400.000 đồng thông qua chuyển khoản Ngân hàng và giao tiền mặt.

Cáo trạng số 23/CT-VKS-P1 ngày 12/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B truy tố Lương Ái N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 20/2021/HS-ST ngày 28/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh B đã tuyên xử:

1. Tuyên bố bị cáo Lương Ái N, phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lương Ái N 15 (mười lăm) năm tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày 20/6/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm đã tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

- Ngày 05/10/2021, bị cáo Lương Ái N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Lương Ái N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm đã xét xử và đề nghị cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Luật sư Huỳnh Kim M trình bày quan điểm bào chữa cho bị cáo N: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như sau: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, đã khắc phục được một phần trách nhiệm dân sự đối với những người bị hại và tại phiên tòa đã cung cấp xác nhận đã khắc phục thêm 10 triệu đồng cho bị hại M, bị cáo trình độ thấp, khả năng nhận thức pháp luật còn hạn chế, hoàn cảnh gia đình có con nhỏ, khi phạm tội bị cáo đã đầu thú. Từ đó, Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo N.

Bị cáo N đồng ý lời bào chữa của Luật sư, mong Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo giảm án cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau: Tòa án cấp sơ xét xử bị cáo về tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản với mức án 15 năm tù là phù hợp với quy định của pháp luật, có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Người kháng cáo không có tình tiết gì mới để làm căn cứ xem xét kháng cáo xin giảm án, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh B, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Toà án nhân dân tỉnh B, Kiểm sát viên và Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp đối với cấp sơ thẩm.

[2]. Từ tháng 8/2018 đến tháng 4/2020, bị cáo Lương Ái N đã có hành vi gian dối đưa ra thông tin không có thật về việc có nơi bán sỉ quần áo may sẳn giá rẻ, có khách hàng đặt mua để kêu gọi nhiều người góp vốn mua, bán lại chia lợi nhuận cao. Đồng thời, để cho bị hại tin tưởng bị cáo N đã tạo ra nhiều tài khoản và nhóm chat trên mạng xã hội Zalo, đưa thông tin không có thật về giao dịch mua bán, sao chép, tạo lập hóa đơn mua bán….để cho những người bị hại tin tưởng, giao tiền cho bị cáo. Bị cáo Lương Ái N đã chiếm đoạt của Đường Thị Ngọc T số tiền 2.013.500.000 đồng; Đường Thị Mỹ Q số tiền 976.000.000 đồng; Đinh Thị A số tiền 109.000.000 đồng; Giang Ngọc T số tiền 572.850.000 đồng; Trần Văn M số tiền 95.400.000 đồng. Tổng số tiền bị cáo Lương Ái N chiếm đoạt của bị hại là 3.766.750.500 đồng.

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lương Ái N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thuộc trường hợp chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, là có căn cứ đúng người, đúng tội.

[3] Xét thấy, hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác mà còn gây bức xúc trong quần chúng nhân dân, tạo tâm lý bất an cho người dân trong thực hiện các giao dịch dân sự, hợp tác kinh doanh, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh ở địa phương. Do đó, cần phải được xử phạt nghiêm, đồng thời cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài để răn đe, giáo dục bị cáo cũng như có tác dụng phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[4]. Đơn kháng cáo của bị cáo nằm trong hạn luật định nên hợp lệ.

[5]. Xét nội dung kháng cáo của bị cáo N, Hội đồng xét xử nhận thấy: cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s, khắc phục hậu quả theo điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo đã nhiều lần chiếm đoạt tài sản của bị hại nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội 02 lần trở lêntheo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, từ đó cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 15 năm tù là thỏa đáng.

[6]. Tại phiên tòa, bị cáo N nộp giấy xác nhận đã khắc phục 10 triệu đồng cho ông Trần Văn M là tình tiết giảm nhẹ mới để Hội đồng xét xử xem xét. Tuy nhiên, số tiền này chưa đủ căn cứ để xem xét kháng cáo của bị cáo mà sẽ được khấu trừ cho bị hại trong quá trình thi hành án. Do vậy, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[7]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lương Ái N, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Lương Ái N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng a khoản 4 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lương Ái N 15 (mười lăm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/6/2020.

Bị cáo Lương Ái N phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 184/2022/HS-PT

Số hiệu:184/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về