Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 129/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BN ÁN 129/2022/HS-PT NGÀY 07/04/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 04/2022/TLPT-HS ngày 04 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo Trần Văn S do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 90/2021/HS-ST ngày 25 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

- Bị cáo có kháng cáo:

Trần Văn S, sinh ngày 29 tháng 01 năm 1964, tại Nghệ An; Nơi ĐKNKTT: tỉnh Nghệ An; Tạm trú: thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Thợ sửa đồng hồ; Trình độ học vấn: 10/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn L (sinh năm 1930) và bà Đậu Thị D (chết). Gia đình có 07 anh em. Bị cáo là con thứ nhất. Có vợ là Hoàng Thị N (đã ly hôn năm 2008) và có 02 con (con lớn sinh năm 1989, con nhỏ sinh năm 1999).

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 15/9/2020, có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn S: Ông Nguyễn Văn L – Luật sư Văn phòng luật sư T thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng, bào chữa cho bị cáo theo yêu cầu của Tòa án, có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời là người làm chứng không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ năm 2016 đến năm 2019, Trần Văn S đã đưa ra những thông tin gian dối thông qua việc xin việc làm và nhận tiền đặt cọc mua, bán đất tại các dự án trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để thực hiện nhiều lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác, tổng số tiền là 5.574.000.000 đồng; cụ thể:

Lần thứ nhất: Do có nhu cầu mua đất, thông qua anh Phạm L, anh Nguyễn Văn M đã gặp và làm quen với Trần Văn S. S nói dối với anh M, S là người thuộc Bộ Quốc phòng, quản lý việc bán đất thuộc dự án Khu S (tại đường X, quận H) của Tổng Công ty X Bộ Quốc phòng. Sau khi được S giới thiệu sơ đồ dự án, anh M thống nhất mua 03 lô đất tại dự án này gồm lô số 1, 2 và 3 kể từ cầu T đến cầu R, mặt tiền đường X và đường B 10 sát công viên chạy ra cầu Sông Hàn.

Ngày 01/11/2016, do bận công việc, nên S có nhờ anh L nhận giúp cho S số tiền 1.000.000.000đ do anh M giao để nhờ S đặt giữ chỗ mua 03 lô đất nêu trên. Khi giao nhận tiền anh M có lập “giấy biên nhận tiền đặt cọc”, S cam kết trong thời hạn 90 ngày sẽ hoàn tất mọi thủ tục để chuyển nhượng 03 lô đất cho anh M. Sau khi nhận được tiền của anh M, S không thực hiện theo cam kết và đã chiếm đoạt số tiền này.

Lần thứ hai: Ngày 23/01/2017, S nói dối với anh M là S có 15 lô đất liền kề: Từ lô số 16 đến lô số 31 (trừ lô số 29) thuộc Khu tái định cư phía tây Trường trung học cơ sở L, thuộc phường M, quận N đang xin Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng ra giấy tờ, anh M thống nhất mua và giao cho S số tiền 4.000.000.000đ để giữ chỗ mua 15 lô đất thuộc dự án này. Khi lập “giấy biên nhận tiền đặt cọc”, S cam kết trong thời hạn 90 ngày sẽ hoàn tất mọi thủ tục để chuyển nhượng đất cho anh M nhưng S không thực hiện được. Sau khi nhận được tiền của anh M, S không thực hiện theo cam kết và đã chiếm đoạt số tiền này.

Tiến hành xác minh tại Tổng Công ty X Bộ Quốc phòng và Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận N, thành phố Đà Nẵng xác định:

- Tổng Công ty X Bộ Quốc phòng không nhận tiền đặt cọc giữ chỗ của cá nhân nào đối với 03 lô đất tại Nhà máy S như mô tả trong hợp đồng đặt cọc giữ chỗ giữa anh M và S. Thời điểm ngày 01/11/2016, Tổng công ty X Bộ Quốc phòng không có chủ trương bán 03 lô đất nêu trên, đến ngày 02/02/2017, UBND thành phố Đà Nẵng mới có Quyết định số 649/QĐ-UBND về việc phê duyệt điều chỉnh phân lô dự án này. Trần Văn S không phải là cán bộ của Tổng công ty X Bộ Quốc phòng.

- Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận N, thành phố Đà Nẵng chưa tiếp nhận hồ sơ lập thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất của 15 lô đất trên từ cá nhân hay tổ chức nào.

Tại Bản kết luận giám định số 102/GĐ-TL ngày 10/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: “Chữ ký, chữ viết mang tên Trần Văn S dưới các mục “Bên nhận cọc” và “Bên vay” trên các tài liệu cần giám định so với chữ ký, chữ viết của Trần Văn S trên các tài liệu so sánh là do cùng một người ký và viết ra.Lần thứ ba: Cũng thông qua anh Phạm L giới thiệu, biết anh Đinh Xuân D có nhu cầu mua đất nên Trần Văn S đưa ra thông tin gian dối là có mối quan hệ với các lãnh đạo thành phố, có thể giữ chỗ mua đất tại dự án khu dân cư phía Bắc nhà máy cao su, thuộc quận N, thành phố Đà Nẵng với giá rẻ, đồng thời cam kết sẽ giữ chỗ cho anh D mua 01 lô đất (lô thứ 5, Blook thứ 2, tính từ đường L vào). Vì tin tưởng S nên ngày 27/7/2016, tại nhà hàng L, số 119 L, quận H, anh D đã đưa cho S 200.000.000đ để đặt cọc giữ chỗ lô đất này. Khi nhận tiền cọc, S viết giấy biên nhận và cam kết trong vòng 50 ngày sẽ giao đất cho anh D. Sau khi nhận được tiền của anh D, S không thực hiện theo cam kết và đã chiếm đoạt số tiền này.

Tiến hành xác minh tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận N xác định: Đối với dự án khu dân cư phía Bắc nhà máy cao su, tại quận N, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận N không có hồ sơ lưu trữ.

Lần thứ tư: Khoảng tháng 4/2019, do có nhu cầu xin việc làm, chị Nguyễn Thị T nhờ người chú là anh Phạm T B giới thiệu gặp và làm quen với Trần Văn S. S nói dối với chị T là S có nhiều mối quan hệ với cán bộ của một số ngân hàng nên có thể xin cho chị T vào làm việc tại Ngân hàng N - Chi nhánh Đà Nẵng với tổng chi phí là 350.000.000đ. Do tin tưởng S, ngày 03/5/2019, chị T đã đến ngân hàng Thương mại cổ phần S chi nhánh N, chuyển 350.000.000đ vào tài khoản của S số 51110000005328. Đến ngày 29/5/2019, S nêu lý do cần tiền để gặp Giám đốc ngân hàng nên đã yêu cầu chị T chuyển thêm cho S 24.000.000đ, S yêu cầu chị T chuyển vào tài khoản số 51110000572752 của Trần Văn H (là em ruột của S) qua Ngân hàng B chi nhánh Tây Nghệ An và sau đó H rút tiền đưa lại cho S. Sau khi nhận được tiền của chị T, S không thực hiện theo cam kết mà chiếm đoạt và sử dụng vào mục đích cá nhân.

Tiến hành xác minh tại Ngân hàng N chi nhánh Đà Nẵng, xác định: Trong khoảng từ năm 2019 đến năm 2020, không có cá nhân nào tên Trần Văn S đến liên hệ và nộp hồ sơ xin việc làm cho chị Nguyễn Thị T. Tại ngân hàng N chi nhánh Đà Nẵng không có nhân viên nào tên Nguyễn Thị T đang làm việc.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 90/2021/HS-ST ngày 25/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ: điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn S 11 (mười một) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời gian chấp hành án kể từ ngày bắt tạm giam 15/9/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 02 tháng 12 năm 2020, bị cáo Trần Văn S có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

+ Bị cáo Trần Văn S giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết.

+ Đại diện Viện kiểm sát cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị HĐXX cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Trần Văn S khai nhận từ năm 2016 đến năm 2019, Trần Văn S đã đưa ra những thông tin gian dối thông qua việc xin việc làm và nhận tiền mua, bán đất tại các dự án trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để thực hiện 4 lần lừa đảo chiếm đoạt tổng số tiền 5.574.000.000 đồng của anh Nguyễn Văn M, anh Đinh Xuân D và chị Nguyễn Thị T; cụ thể như sau:

Lần 1: S nói dối với anh M, S là người thuộc Bộ Quốc phòng, quản lý việc bán đất thuộc dự án Khu S của Tổng Công ty X Bộ Quốc phòng để chiếm đoạt của anh M số tiền 1.000.000.000đ (một tỷ đồng);

Lần 2: Sau đó, S nói dối với anh M là S có 15 lô đất liền kề thuộc Khu tái định cư phía tây Trường trung học cơ sở L, thuộc phường M, quận N; chiếm đoạt của anh M số tiền 4.000.000.000đ (bốn tỷ đồng).

Lần 3: Trần Văn S đưa ra thông tin gian dối là có mối quan hệ với các lãnh đạo thành phố, có thể giữ chỗ mua đất tại dự án khu dân cư phía Bắc nhà máy cao su với giá rẻ và chiếm đoạt của anh D 200.000.000đ (hai trăm triệu đồng).

Lần thứ tư: Lợi dụng nhu cầu xin việc làm của chị Nguyễn Thị T, S nói với chị T là S có nhiều mối quan hệ và có thể xin cho chị T vào làm việc tại Ngân hàng N - Chi nhánh Đà Nẵng nên chị T tin tưởng giao cho tiền cho S và sơn chiếm đoạt của chị T số tiền 374.000.000đ (ba trăm bảy mươi tư triệu đồng) Lời khai nhận của bị cáo Trần Văn S phù hợp với lời khai của những người bị hại Nguyễn Văn M, Đinh Xuân D và Nguyễn Thị T và những người liên quan Phạm L, anh Phạm T B; phù hợp với tài liệu và lời khai của Tổng Công ty X Bộ Quốc phòng, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận N, Ngân hàng N chi nhánh Đà Nẵng; phù hợp với Kết luận giám định số 102/GĐ-TL ngày 10/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng cùng các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Do đó, HĐXX cấp phúc thẩm có đủ căn cứ để kết luận: Hành vi của bị cáo Trần Văn S đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự như Tòa án cấp sơ thẩm quy kết là có căn cứ và đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo:

Bị cáo Trần Văn S phạm tội theo khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự, quy định số tiền chiếm đoạt từ trên 500.000.000 đồng và có mức hình phạt khởi điểm từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân; là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng và thuộc trường hợp phải áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội nhiều lần theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Do đó, sau khi xem xét nhân thân của bị cáo và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như: Đã tự nguyện bồi thường thiệt hại số tiền là 5.574.000.000 đồng cho bị hại Nguyễn Văn M, Đinh Xuân D, Nguyễn Thị T và được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; quá trình tố tụng bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và gia đình bị cáo có công, bị cáo có thời gian tham gia bộ đội để quyết định xử phạt bị cáo một mức hình phạt 11 (mười một) năm tù, dưới mức khởi điểm của khung hình phạt được áp dụng đối với bị cáo là phù hợp.

Tại Tòa án cấp phúc thẩm, gia đình bị cáo cung cấp các giấy tờ: Bị cáo là lao động chính trong gia đình có hoàn cảnh kinh tế khó khăn (được chính quyền địa phương xác nhận), tiếp tục bồi thường cho bị hại Nguyễn Văn M số tiền liên quan đến mua bán căn nhà số 14-Dương Thị Xuân Qúy, Đà Nẵng là 300.000.000 đồng và cha bị cáo là ông Trần Văn Lan được tặng huy hiệu 55 năm tuổi Đảng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ mới theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do đó, HĐXX cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo và giảm nhẹ bị cáo Trần Văn S một phần hình phạt nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[3] Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Trần Văn S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên cấp phúc thẩm không xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn S và sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt;

Căn cứ điểm a, khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Trần Văn S 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 15/9/2020.

Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị về xử lý vật chứng, về án phí sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Trần Văn S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 129/2022/HS-PT

Số hiệu:129/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về