Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 105/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 105/2023/HS-PT NGÀY 10/03/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1212/2022/TLPT-HS ngày 20 tháng 12 năm 2022 đối với vụ án Nguyễn Văn A cùng đồng phạm phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn A đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2022/HS-ST ngày 13/10/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam.

* Bị cáo có kháng cáo:

Bị cáo Nguyễn Văn A, sinh ngày 30 tháng 05 năm 1995 tại Hà Nội; quê quán: Thị trấn VĐ, huyện ƯH, thành phố Hà Nội; nơi cư trú: Thôn NX, thị trấn VĐ, huyện ƯH, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn A1 và bà Phạm Thị A2; vợ con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/3/2022 đến ngày 13/5/2022; bị cáo tại ngoại; có mặt.

* Các bị cáo không kháng cáo:

1. Lê Huy A3, sinh năm 1993; nơi cư trú: Khu 13, xã ĐT, huyện HH, tỉnh Phú Thọ.

2. Ninh Viết A4, sinh năm 1996; ĐKNKTT: Tổ 3, phường NP, thành phố GN, tỉnh Đắk Nông; chỗ ở: Thôn BX, xã CT, huyện CT, tỉnh Thanh Hoá.

3. Trần Đình A5, sinh năm 1998; nơi cư trú: Tổ dân phố NT, thị trấn YS, huyện YS, tỉnh Tuyên Quang.

4. Nguyễn Hoàng A6, sinh năm 2000; nơi cư trú: Tổ dân phố NT, thị trấn YS, huyện YS, tỉnh Tuyên Quang.

5. Nguyễn Tùng A7, sinh năm 1999; nơi cư trú: Thôn 7, xã TM, huyện YS, tỉnh Tuyên Quang.

6. Phạm Văn A8, sinh năm 2002; nơi cư trú: Thôn LT, xã CT, huyện CT, tỉnh Thanh Hoá.

7. Hà Văn A9, sinh ngày 16/4/2004; nơi cư trú: Thôn ĐL, xã CN, huyện CT, tỉnh Thanh Hoá.

8. Cao Văn A10, sinh ngày 06/4/2004; nơi cư trú: Thôn QT, xã CQ, huyện CT, tỉnh Thanh Hoá.

9. Đinh Tiến A11, sinh ngày 28/5/2005; nơi cư trú: Xóm TS, xã NL, huyện YT, tỉnh Hoà Bình.

* Người đại diện hợp pháp của bị cáo Đinh Tiến A11 không kháng cáo: Ông Đinh Văn A12, sinh năm 1982; trú tại: Xóm TS, xã NL, huyện YT, tỉnh Hoà Bình.

* Người bị hại không kháng cáo: Anh Nguyễn Đắc A13, sinh năm 1996 và anh Nguyễn Hữu A14, sinh năm 1996; cùng trú tại: Thôn AH, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà Nam.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo:

- Anh Nguyễn Tuấn A15, sinh ngày 03/4/2006; người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Văn A16, sinh năm 1977; nơi cư trú: Thôn NX, thị trấn VĐ, huyện ƯH, thành phố Hà Nội.

- Anh Lê Xuân A17, sinh ngày 13/11/2006; người đại diện hợp pháp: Bà Đồng Thị A18, sinh năm 1986; nơi cư trú: Khu công nghiệp TS, thôn D, xã LB, huyện TD, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 02 năm 2021, với mục đích chiếm đoạt tiền của những người có nhu cầu mua các số lô, số đề, thông qua mạng xã hội Zalo, Facebook, Nguyễn Văn A thuê các số thuê bao di động 0828.33.9999; 0832.00.9999;

0828.85.9999; 0706.00.8888; 0832.31.9999; 0832.28.9999; 0857.50.9999 để đăng ký 07 tài khoản Zalo, gồm: “Chi Nhánh BN”, “LHP”, “Chi Nhánh CC”, “LHP”, “CHD”, “DVS”, “Chi Nhánh BM”. Sau đó, A tiếp tục thuê nhiều số thuê bao di động khác (không xác định được cụ thể số thuê bao), tự tạo lập ra các tài khoản Zalo với nhiều tên gọi khác nhau như “BL”, “TCE ”, “TH”... dưới danh nghĩa người mua số lô, đề của A. Khi có được các tài khoản Zalo nêu trên, A cài đặt thời gian hiển thị trên các máy điện thoại di động của A trước giờ mở thưởng, tự tạo các tin nhắn có nội dung cho số lô, đề chính xác từ 07 tài khoản Zalo của A với các tài khoản Zalo “BL”, “TCE ”, “TH”... thể hiện việc người chơi mua số lô, đề của A. Sau khi tạo được các tin nhắn, A chụp ảnh màn hình điện thoại để lưu các tin nhắn trên các máy điện thoại của A và lưu trên nhóm Zalo có tên “Nhóm 6 ảnh” do A tạo lập trước đó, với mục đích hàng ngày sau khi có kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc, A sử dụng phần mềm chỉnh sửa ảnh trên máy điện thoại di động để chỉnh sửa các tập ảnh dưới dạng tin nhắn do A tạo ra được lưu trên điện thoại thể hiện nội dung ngày cho số lô lô, số đề trùng với kết quả xổ số kiến thiết Miền Bắc mở thưởng ngày hôm đó vào phần tin nhắn để gửi từ 07 tài khoản Zalo của A đến các tài khoản Zalo “BL”, “TCE ”, “TH”... để người xem truy cập các tài khoản Zalo trên tin tưởng A có thể cho số lô, đề chính xác và đã trúng thưởng, kèm theo số tài khoản Ngân hàng 19038100118015, 19038284844015 do A mua trên mạng xã hội trước đó để nhận tiền của người có nhu cầu mua số lô đề của A.

Đồng thời, Nguyễn Văn A thuê các căn hộ số 614, 615, 611 của Tòa nhà CT3 và căn hộ 624 của Tòa nhà CT4 đều thuộc Chung cư The P của Công ty Cổ phần địa ốc CS; trong đó A trực tiếp đứng tên thuê căn hộ 615, 624 và lấy tên người khác do A tự lấy để làm Hợp đồng đứng thuê căn hộ 611 và 614 sử dụng làm nơi ăn ở và thực hiện việc chạy quảng cáo, tương tác với các tài khoản Zalo, Facebook có nội dung cho số lô, đề chuẩn xác.

Trong thời gian thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền, A nhiều lần mua tổng số 169 bộ máy tính và lắp đặt ở căn hộ 611, 39 máy tính; căn hộ 614, 46 máy tính; căn hộ 615, 36 máy tính; căn hộ 624, 48 máy tính; đồng thời chia 169 bộ máy tính thành 07 nhóm (Mỗi nhóm từ 10 đến 30 máy tính), cài đặt phần mềm Zalo để tạo lập nhóm các tài khoản Zalo tương ứng với nhóm máy tính có tên nhóm như “Nhậu”, “Thiên địa hội”, “6 ảnh”, “Posche Macan” và nhiều nhóm khác nhau. Thông qua mạng Internet, A mua khoảng 70.000 tài khoản Facebook (không rõ tên, chủ sở hữu tài khoản) và cài đặt phần mềm MaxxCare (phần mềm chuyên dụng có thể thực hiện thao tác đăng bài, tương tác cùng lúc tối đa khoảng 600 tài khoản Facebook trên mạng) trên 169 bộ máy tính để đăng tải hình ảnh, bài viết thể hiện các số điện thoại (07 số) của A cho số lô, đề trúng thưởng và quản lý các bài đăng trên Facebook.

Từ tháng 03/2021 đến tháng 01/2022, A lần lượt thuê 11 đối tượng đến ăn ở tại các căn hộ do A thuê để thực hiện các công việc do A giao, trong đó: Nhóm làm từ tháng 3/2021 đến ngày 28/3/2022 có Nguyễn Tuấn A15, sinh ngày 03/4/2006; nhóm làm từ tháng 01/2022 đến ngày 28/3/2022 có Ninh Viết A4, Trần Đình A5, Lê Huy A3, Nguyễn Hoàng A6, Cao Văn A10, Hà Văn A9 và Lê Xuân A17; nhóm làm từ ngày 16/3/2022 đến ngày 28/3/2022 có Phạm Văn A8, Nguyễn Tùng A7 và Đinh Tiến A11.

Lê Huy A3 được A giao phụ trách quản lý căn hộ 624 và sử dụng điện thoại di động có số thuê bao 0857.50.8888 để trực tiếp tư vấn và hướng dẫn người có nhu cầu mua số lô, đề chuyển tiền vào tài khoản của A, nhắn tin cho số khi có người liên hệ mua số lô, đề. A và A3 thỏa thuận nếu A3 tư vấn được người mua số lô, đề thì sẽ được hưởng 30% số tiền người mua chuyển cho A; các căn hộ 611, 614 và 615 A trực tiếp quản lý và hướng dẫn người có nhu cầu mua số lô đề, cách thức chuyển tiền. Hàng ngày, vào khoảng 09 giờ sáng, A giao cho 11 đối tượng trên mở máy tính và chạy phần mềm Maxxcare để chạy tính năng tương tác trên tài khoản Facebook đã được A cài đặt từ trước (bao gồm việc tự động kết bạn, gắn thẻ bạn bè vào bài viết, thích bài viết và đăng bài có nội dung một dấu “.” vào bài viết...), kiểm tra tình trạng hoạt động của các tài khoản Facebook, nếu tài khoản nào không hoạt động, bị khóa hoặc cần xác A thông tin chính chủ theo chính sách của mạng xã hội Facebook thì những đối tượng này thực hiện thao tác lấy lại quyền đăng nhập của các tài khoản đó và tiếp tục chạy tính năng tương tác. Khoảng 18 giờ 45 phút, khi đã có kết quả mở thưởng xổ số các miền, tất cả các đối tượng sẽ khởi động máy tính, mở phần mềm Maxxcare và phần mềm Zalo, chờ A gửi hình ảnh đã chỉnh sửa ngày, tháng, năm cho số lô, đề vào các nhóm Zalo trên. Khi A gửi tập có 07 hình ảnh (gồm kết quả xổ số các miền mở thưởng ngày hôm đó, các ảnh chụp màn hình điện thoại có nội dung cho số trúng thưởng, tin nhắn liên hệ xin số lô, đề …) lên các nhóm Zalo, các đối tượng thực hiện việc tải tập có 07 hình ảnh do A gửi, lưu vào thư mục có tên là “New Folder” và xoá tập có 07 hình ảnh của ngày hôm trước, sử dụng phần mềm Maxxcare để đăng tải lên tất cả các tài khoản Facebook trên máy tính để phần mềm Maxxcare tự động chạy và đăng tải các hình ảnh do A gửi. Sau khi đăng bài xong, các đối tượng sẽ chờ và kiểm tra tình trạng hoạt động của phần mềm Maxxcare, nếu phần mềm nào bị lỗi thì xử lý để tiếp tục đăng bài và dừng việc chạy tương tác khoảng 24 giờ cùng ngày.

Trước 18 giờ hàng ngày, A giao cho Nguyễn Tuấn A15 đến các địa điểm rút tiền để rút toàn bộ số tiền mà người mua số lô, đề chuyển đến về đưa cho A, số tiền chiếm đoạt được A sử dụng để trả lương, nuôi ăn, ở cho các đối tượng.

Khi người sử dụng mạng xã hội Facebook xem bài viết của A đã gọi điện hoặc nhắn tin vào các số điện thoại A ghi ở cuối bài viết để liên hệ mua số lô, đề thì A gửi cho người mua “Bảng phí hồ sơ” với các mức giá “Bạch thủ lô 5.000.000đ”, “Bạch thủ đề 20.000.000đ”, “Xửu chủ lô 3 con (Lô ba số) 15.000.000đ”, “Song thủ lô (Lô xiên) 10.000.000đ”, “Ba càng vip 40.000.000đ”, phần dưới “Bảng phí hồ sơ” A đăng nội dung “Cam kết số đảm bảo chính xác 100%, không chính xác đền bù gấp đôi”. Khi người mua đồng ý mua số lô đề với mức giá do A đưa ra, A gửi cho người mua các số tài khoản Ngân hàng 19038100118015 và 19038284844015 mở tại Ngân hàng TMCP K Việt Nam - Chi nhánh NTS thuộc quận TX, Thành phố Hà Nội để người mua số lô, đề chuyển tiền. Sau khi nhận được tiền, A cho người mua số lô, đề một con số bất kỳ mà A tự nghĩ ra, nếu không trúng A nói hôm sau bù số khác, hoặc không cho số lô đề như đã hứa, nếu người mua nhắn tin chửi A sẽ chặn Zalo, cuộc gọi của người mua. Đầu tháng 02/2022, tin tưởng nội dung các tin nhắn, hình ảnh A đưa ra là thật, anh Nguyễn Đắc A13 và anh Nguyễn Hữu A14 thường xuyên theo dõi các bài viết quảng cáo trên Facebook về việc cho số lô, đề kèm theo số điện thoại 0828.33.9999 của A. Qua theo dõi, thấy các số lô, đề A cho có xác suất trúng thưởng cao; ngày 24/02/2022, anh A13 sử dụng tài khoản Zalo “Phúc Lâm” đăng ký bằng số thuê bao 0938208725 của anh A13; ngày 25/3/2022, anh A14 sử dụng tài khoản Zalo “Gaunhoiboom” đăng ký bằng số thuê bao 0779247689 của anh A14 nhắn tin với tài khoản Zalo có tên “Chi Nhánh BM”, “Chi Nhánh BN” đăng ký bằng số thuê 0828.33.9999 của A thì được A gửi bảng giá và tài khoản Ngân hàng số 19038284844015 và số 19038100118015. Tin tưởng A cho số lô, đề chính xác, anh Nguyễn Đắc A13 đã chuyển 5.000.000 đồng đến tài khoản Ngân hàng số 19038100118015 mang tên “PTLA” để mua số “Lô 83”; anh A14 đã chuyển 8.000.000 đồng đến tài khoản Ngân hàng số 19038284844015 mang tên “BLP” đều do A quản lý, sử dụng để mua số đề. Sau khi mua số “Lô 83” tham khảo, đối chiếu với kết quả xổ số Miền Bắc mở thưởng cùng ngày thấy không có số “Lô 83”, anh A13 nhắn tin yêu cầu A trả lại số tiền 5.000.000 đồng thì A chặn liên lạc với anh A13 để chiếm đoạt tiền của anh A13. Anh A14 sau khi chuyển tiền để mua số đề, A không cho anh A14 số đề như quảng cáo mà chặn liên lạc với anh A14 để chiếm đoạt tiền của anh A14. Nghi ngờ A có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền nên anh A13 và anh A14 làm đơn trình báo, tố cáo hành vi lừa đảo của A với Cơ quan điều tra Công an tỉnh Hà Nam.

Ngày 28/3/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra ra Lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật tại các căn hộ số 611, 614, 615, Tòa nhà CT3; căn hộ số 624, Tòa nhà CT4 đều thuộc Chung cư The P do Nguyễn Văn A thuê. Quá trình khám xét khẩn cấp, Cơ quan điều tra thu giữ 169 bộ máy tính (Gồm bàn phím máy tính, chuột máy tính, màn hình máy tính), 18 bộ phát Wifi, bộ Switch, tất cả được niêm phong theo quy định pháp luật. Ngoài ra, Nguyễn Văn A giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu hồng, số thuê bao 0828.33.9999; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu bạc, số thuê bao 0586.390.048; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu hồng, số thuê bao 0878.148.488; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu bạc, không lắp sim; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng, số thuê bao 0828.85.9999 và số tiền 4.630.000 đồng.

Lê Huy A3 giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS Max màu trắng, số thuê bao 0965.467.795; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu trắng, số thuê bao 0823.20.9999; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng, số thuê bao 0832.28.9999; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, số thuê bao 0857.50.8888; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu vàng, số thuê bao 0832.31.9999; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu vàng, số thuê bao 0706.00.8888.

Ninh Viết A4 giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart màu trắng, có các số thuê bao 0981.479.036, 0838.009.239; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng, số thuê bao 0905.070.231; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 230 màu đen, số thuê bao 0365.672.036.

Đinh Tiến A11 giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note10 màu trắng, số thuê bao 0915.673.951; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphon 7 Plus màu trắng, bên trong không lắp sim.

Cao Văn A10 giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu vàng, số thuê bao 0968.184.116; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A92 màu đen tím, bên trong không lắp sim.

Phạm Văn A8 giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu vàng, số thuê bao 0813.619.999; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, bên trong không lắp sim.

Hà Văn A9 giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 màu đỏ, số thuê bao 0392.427.712.

Nguyễn Tùng A7 giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note 11 màu đen, số thuê bao 0969.842.625.

Trần Đình A5 giao nộp 01 điện thoại di động Galaxy J4+ màu vàng, số thuê bao 0904.466.884.

Nguyễn Hoàng A6 giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Pro Max màu vàng, số thuê bao 0329.051.117 và số tiền 34.490.000 đồng.

Nguyễn Tuấn A15 giao nộp 01 điện thoại di động Iphone 13 Pro Max màu trắng, số thuê bao 0387.728.312.

Lê Xuân A17 giao nộp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XR màu đỏ, số thuê bao 0353.660.364. Tất cả các điện thoại đã thu giữ đều niêm được niêm phong theo quy định pháp luật.

Khai thác dữ liệu 169 máy tính đã thu giữ, kết quả 09 máy tính không có dữ liệu liên quan đến vụ án, 04 máy tính không hoạt động nên không kiểm tra được dữ liệu, 156 máy tính đều có các thông tin, tài liệu liên quan đến việc các bị cáo đăng tải bài viết để thực hiện hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tất cả đều được in ra giấy khổ A4 và các bị can ký xác nhận.

Khai thác dữ liệu trong các điện thoại di động phát hiện: Điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu hồng, số thuê bao 0828.339.999; điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu bạc, số thuê bao 0586.390.048; điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus màu hồng, số thuê bao 0878.148.488; điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng, số thuê bao 0828.859.999 thu giữ của Nguyễn Văn A; điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng, số thuê bao 0832.289.999; điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, số thuê bao 0857.508.888; điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu vàng, số thuê bao 0832.319.999; điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu vàng, số thuê bao 0706.008.888 thu giữ của Lê Huy A3; điện thoại di động Iphone 13 Pro Max màu trắng, số thuê bao 0387.728.312 thu giữ của Nguyễn Tuấn A15; điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu trắng, không lắp sim thu giữ của Đinh Tiến A11 đều có các thông tin liên quan đến việc các bị can đăng tải các bài viết để thực hiện hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tất cả được in giấy khổ A4 và các bị can đã ký xác nhận. Kiểm tra dữ liệu các điện thoại đã thu giữ còn lại không phát hiện có thông tin liên quan đến vụ án.

Tại Công văn số 352/2022/HNM-TUS, ngày 09/5/2022 của Ngân hàng TMCP K Việt Nam - Chi nhánh Hà Nam xác định: Tài khoản số 19038284844015, chủ tài khoản (BLP); Tài khoản số 19038100118015 (Đã đóng giao dịch), chủ tài khoản (PTLA); ngày 24/02/2022, có nội dung “Em ct mua số” từ số điện thoại 0944.856.051 đến tài khoản 19038100118015, số tiền 5.000.00 đồng; ngày 25/3/2022 có nội dung “Em chuyển tiền lấy số” hai lần từ tài khoản 1708199688888 đến tài khoản 19038284844015, tổng số tiền 8.000.00 đồng.

Tiến hành xác A đối với các chủ tài khoản Ngân hàng mang tên BLP và PTLA, kết quả chị P hiện là sinh viên Học viện Nông nghiệp Việt Nam và LA là sinh viên Trường Cao đẳng y tế Hà Đông, Hà Nội đều xác định do có nhu cầu làm thêm, thông qua mạng facebook đăng quảng cáo giới thiệu nên đã liên hệ và được hướng dẫn mang giấy tờ tùy thân ra mở tài khoản ở Ngân hàng TMCP K Việt Nam - Chi nhánh NTS. Sau khi mở xong tài khoản sẽ có người đến liên lạc lấy thẻ và trả cho mỗi người 150.000 đồng, bản thân chị P và LA không sử dụng thẻ lần nào cũng không biết người lấy thẻ sử dụng thẻ vào mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Thực hiện phong tỏa tài khoản số 19038100118015, số dư tại thời điểm đóng tài khoản theo yêu cầu của khách hàng ngày 15/3/2022 là 6.812.017 đồng;

19038284844015, số dư đến ngày 01/6/2022 là 54,398 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Ngày 05/6/2022, Nguyễn Văn A đã tự nguyện trả lại cho anh Nguyễn Hữu A14 8.000.000 đồng, anh Nguyễn Đắc A13 5.000.000 đồng. Anh A14 và anh A13 đã nhận đủ tiền và không có ý kiến gì.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 47/2022/HS-ST ngày 13/10/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam đã áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, o khoản 1 Điều 52; điều 17; Điều 38; Điều 47; Điều 48, Điều 50; Điều 58 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/3/2022 đến ngày 13/5/2022.

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Văn A 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng). Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định tội danh, hình phạt, hình phạt bổ sung đối với các bị cáo khác; xử lý vật chứng; án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 17/10/2022, bị cáo Nguyễn Văn A có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt và xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn A thay đổi nội dung kháng cáo, bị cáo chỉ xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo xuất trình Biên lai nộp 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) tiền phạt bổ sung, 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và Chứng nhận của Ủy ban nhân dân huyện Đ ghi nhận tấm lòng vàng của bị cáo đã nhận phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng CT ở thôn TN, xã A B, huyện Đ, tỉnh Quảng Trị từ tháng 02/2022, mức phụng dưỡng mỗi tháng 300.000 đồng.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích nội dung vụ án, lời khai của bị cáo tại phiên tòa và kết quả tranh tụng, kết luận: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo Nguyễn Văn A về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật và xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ để xử phạt bị cáo A 12 tháng tù là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình Biên lai đã thi hành xong khoản tiền phạt bổ sung, án phí hình sự sơ thẩm và chứng nhận của Ủy ban nhân dân huyện Đ bị cáo nhận nuôi bà mẹ Việt Nam anh hùng ở thôn TN, xã A B, huyện Đ, tỉnh Quảng Trị từ tháng 02/2022, mức phụng dưỡng mỗi tháng 300.000 ngàn đồng. Đây là các tình tiết mới tại cấp phúc thẩm, do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giảm cho bị cáo 03 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, truy tố trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng ở các cấp đã thực h iện đúng quy định pháp luật.

- Đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định, đúng quy định của pháp luật, do đó cần được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về tội danh và áp dụng điều luật đối với bị cáo: Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn A thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã quy kết. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo Lê Huy A3, Ninh Viết A4, Trần Đình A5, Nguyễn Hoàng A6, Nguyễn Tùng A7, Phạm Văn A8, Hà Văn A9, Cao Văn A10, Đinh Tiến A11 tại cơ quan điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người bị hại là anh Nguyễn Đắc A13, anh Nguyễn Hữu A14 và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng tháng 02 năm 2021, với mục đích chiếm đoạt tiền của những người có nhu cầu mua số lô, số đề, Nguyễn Văn A đã thuê các căn hộ 611, 614, 615, 624 Toà nhà CT3, CT4 Chung cư The P tại địa chỉ tổ 09, phường La Khê, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội làm địa điểm, mua các bộ máy tính, tài khoản Facebook, tài khoản ngân hàng, thuê các số điện thoại để tạo lập các tài khoản Zalo, các hình ảnh, nội dung tin nhắn cho số lô, số đề và số điện thoại liên hệ. Khi có kết quả mở thưởng xổ số, A và Lê Huy A3 sử dụng phần mềm chỉnh sửa ảnh trên điện thoại di động để chỉnh sửa các tin nhắn, hình ảnh đã tạo trước đó thể hiện nội dung A cho số lô, số đề đúng với kết quả mở thưởng xổ số ngày hôm đó và gửi lên các nhóm Zalo, tài khoản Facebook do A tự tạo ra. Sau đó, A cùng với Lê Huy A3, Ninh Viết A4, Cao Văn A10, Phạm Văn A8, Trần Đình A5, Nguyễn Tùng A7, Nguyễn Hoàng A6, Hà Văn A9, Đinh Tiến A11 sử dụng mạng xã hội Zalo, Facebook đăng tải các bài viết, thông tin việc A cho các số lô, số đề chuẩn xác để người có nhu cầu mua số lô, số đề tin tưởng và dùng phần mềm Maxcare được cài đặt sẵn trên 169 bộ máy tính thực hiện tương tác với khoảng 70.000 tài khoản Facebook để quảng cáo việc cho số lô, số đề.

Tin tưởng các thông tin A đưa ra là thật, ngày 24/2/2022 anh Nguyễn Đắc A13 chuyển 5.000.000 đồng mua số lô 83 để tham khảo và bị A cùng với Lê Huy A3, Ninh Viết A4, Trần Đình A5, Nguyễn Hoàng A6, Hà Văn A9 và Cao Văn A10 chiếm đoạt của anh A13 5.000.000 đồng; ngày 25/3/2022, anh Nguyễn Hữu A14 chuyển 8.000.000 đồng để mua số đề. Sau khi nhận tiền, A cùng Lê Huy A3, Ninh Viết A4, Trần Đình A5, Nguyễn Hoàng A6, Hà Văn A9, Cao Văn A10, Nguyễn Tùng A7, Phạm Văn A8, Đinh Tiến A11 không cho số đề như đã quảng cáo và chiếm đoạt của anh A14 8.000.000 đồng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bản thân Bị cáo A cùng các bị khác biết rõ hành vi gian dối nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng với động cơ tư lợi cá nhân, ý thức coi thường pháp luật nên các bị cáo vẫn cố tình thực hiện.

Trong vụ án này bị cáo A là người khởi xướng, chuẩn bị các công cụ, thuê 09 bị cáo khác làm thuê, nuôi ăn, ở và trả tiền công. Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, vai trò, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và áp dụng khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Quá trình điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm bị cáo Nguyễn Văn A thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại cho các bị hại và được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, Bị cáo A là người khởi xướng, rủ rê các bị cáo khác phạm tội, xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội, phạm tội nhiều lần nên bị cáo phải chịu 2 tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g, o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và xử phạt bị cáo 12 tháng tù là phù hợp.

Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo xuất trình biên lai thu tiền thể hiện đã thi hành xong phần hình phạt bổ sung và đã nộp đủ tiền án phí hình sự sơ thẩm. Việc bị cáo nộp đủ 20 triệu đồng tiền phạt bổ sung là thể hiện thái độ chấp hành một phần bản án sơ thẩm, đây cũng được coi là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo còn xuất trình chứng nhận của Ủy ban nhân dân huyện Đ bị cáo nhận nuôi bà mẹ Việt Nam anh hùng CT ở thôn TN, xã A B, huyện Đ, tỉnh Quảng Trị từ tháng 02/2022, mức phụng dưỡng mỗi tháng 300.000 ngàn đồng. Do đó, có cơ sở để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửa một phần quyết định của bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Văn A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn A, sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2022/HS-ST ngày 13/10/2022 của Toà án nhân dân tỉnh Hà Nam; cụ thể như sau:

Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, o khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38, Điều 47, Điều 48, Điều 50, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn A 09 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/3/2022 đến ngày 13/5/2022.

2. Xác nhận bị cáo Nguyễn Văn A đã nộp 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) tiền phạt bổ sung và 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, thể hiện tại Biên lai thu tiền số AA/2021/0001624 ngày 10/11/2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Nam. Bị cáo Nguyễn Văn A đã thi hành xong về hình phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

504
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 105/2023/HS-PT

Số hiệu:105/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về