Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 06/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 06/2023/HS-ST NGÀY 05/01/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 142/2022/TLST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2022/QĐXXST-HS ngày 23/12/2022 đối với bị cáo:

Mẫn Thị HA, sinh năm 1990 tại tỉnh C; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn C, xã L, huyện YP, tỉnh C; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: V Nam; con ông Mẫn Văn C, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1967; gia đình có 03 chị em, bị cáo là thứ nhất; có chồng là Nguyễn Văn M, sinh năm 1989; con: Có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sư: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 18/8/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh C; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Mẫn Thị HA: Ông Nguyễn Thế U, Luật sư thuộc Văn phòng luật sư T, đoàn luật sư tỉnh C; có mặt.

* Người bị hại: Chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1984; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn Ngân Cầu, thị trấn C, huyện YP, tỉnh C; có mặt.

* Người làm chứng:

1. Chị Nghiêm Thị H, sinh năm 1983; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Phố C, thị trấn C, huyện YP, tỉnh C, có mặt.

2. Anh Phạm Đình V, sinh năm 1985; nơi ĐKHKTT: Chung cư CT1A, P1409, BTL Thủ đô, phường Y, quận H1 Đông, thành phố H1 Nội, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Mẫn Thị HA có quen biết với chị Nguyễn Thị C từ ngày 21/11/2021 thông qua chị Nghiêm Thị H(là chị dâu của chị C). Ngày 21/11/2021, chị C gọi điện cho chị H để đòi số tiền 100.000.000đ mà chị H vay của chị C từ trước nhưng chị H nói chưa đòi được tiền của HA nên chưa có tiền để trả cho chị C. Lúc đó, chị H có nói với chị C về việc HA đang mua lô hàng nhôm thỏi trong Công ty ToTo V Nam với giá trị lô hàng khoảng 5.400.000.000đ nhưng do hàng lỗi nên phải quay đầu, muốn lấy được tiền ra thì HA phải nộp tiền tH, phí bằng 10% giá trị lô hàng chi cho Công ty ToTo. HA đang vay thêm 500.000.000đ của chị H nhưng chị H không còn tiền. Chị H hỏi vay chị C để cho HA vay, xong việc HA sẽ trả thêm cho chị C 20.000.000đ. Tuy nhiên, do không tin tưởng chị H nên chị C chỉ đồng ý cho HA vay tiền với điều kiện chị C phải cùng HA vào Công ty ToTo nộp tiền và xác nhận việc mua nhôm thỏi của HA tại Công ty là thật. Sau đó, chị H gọi điện lại cho HA thông báo về việc chị C đã đồng ý cho HA vay tiền và gửi cho HA số điện thoại của chị C để HA tự liên lạc. HA sử dụng số điện thoại 0332984XXX gọi vào số 0962249xxx của chị C bảo chị C đi lên Công ty ToTo V Nam để gặp HA, khi nào đến Công ty thì hỏi anh T làm ở bộ phận bảo vệ để anh T cho vào. Chị C đi xe taxi đến Công ty TOTO V Nam tại địa chỉ: Lô M7, KCN Thăng Long II, Phùng Chí Kiên, Mỹ H1o, Hưng Yên gặp HA tại Cổng D của Công ty ToTo. HA nói dối chị C đang mua lô hàng nhôm thỏi của Công ty ToTo V Nam, chi nhánh Hưng Yên giá 5,4 tỷ đồng nhưng hàng bị lỗi nên HA quay đầu trả Công ty. Bây giờ muốn lấy lại số tiền đó ra thì phải chi tiền “mầu” và tiền tH 10%, tiền “mầu” thì HA đã đưa cho Công ty ToTo rồi còn tiền tH thì chưa đủ. HA đã có 40.000.000đ, còn thiếu 500.000.000đ để nộp tiền tH, nếu chị C cho HA vay để vào Công ty làm việc thì HA sẽ cho chị C 20.000.000đ. Chị C yêu cầu HA cho đi cùng vào Công ty ToTo nhưng HA không đồng ý và bảo chị C cứ chuyển tiền cho HA vay, ngày hôm sau HA sẽ trả tiền cho chị C theo đúng thoả thuận. Lúc này, HA đi vào Công ty, còn chị C đi về. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, khi về đến địa phận TP Từ Sơn, tỉnh C, chị C sử dụng số tài khoản số 19027035170010 mở tại ngân hàng TechcomBank của mình, chuyển tiền 2 lần vào tài khoản số 103873698xxx mở tại ngân hàng VietinBank của HA tổng số tiền 500.000.000đ đồng (một lần 300 triệu đồng và 01 lần 200 triệu đồng). Sau khi chị C đi về, HA cũng đi về nhà mà không vào Công ty ToTo như đã nói với chị C.

Ngày 23/11/2021, do không có tiền để trả nợ, HA tiếp tục nói dối chị C về việc Công ty ToTo yêu cầu nộp tiền phạt mà HA mới nộp tiền "mầu" và tiền tH rồi hỏi vay thêm chị C 550.000.000đ để nộp phạt cho Công ty ToTo. Chị C đồng ý nhưng với điều kiện phải có luật sư đi cùng. Chị C thuê luật sư Phạm Đình V.

Chiều ngày 24/11/2021, chị C, anh V hẹn gặp HA tại Công ty ToTo, chi nhánh Hưng Yên. Trên đường đi, HA còn cho chị C 02 số điện thoại 0329123xxx, 08XXX28XXX nói là của chị Nh làm ở bộ phận kho Công ty ToTo. Khoảng 17 giờ cùng ngày, chị C, anh V, HA gặp nhau ở cổng Công ty. Lúc này, HA nói hết giờ làm, không phải ca của chị Nh làm ở kho nữa nên không vào Công ty được, phải C đến 20 giờ là ca làm của anh Huỳnh, anh L mới vào được trong Công ty. Sau đó chị C, anh V cùng HA đi ăn cơm đến khoảng 20 giờ thì quay lại Cổng A Công ty ToTo. Anh V yêu cầu HA đưa cho xem giấy tờ để vào Công ty làm việc, HA nói không mang theo giấy tờ gì. Nghe HA nói vậy, chị C yêu cầu HA cung cấp hồ sơ mua lô nhôm thỏi của Công ty ToTo nhưng HA không cung cấp được. Đối với số tiền 500 triệu đồng đã nhận của chị C, ban đầu HA khai: HA sử dụng điện thoại Samsung của mình truy cập vào trang game "tjb15.net" để đánh bạc online bằng trò chơi "tài xỉu" thua hết số tiền 370.000.000đ, trả nợ cho bà Nguyễn Thị H1, sinh năm 1967, HKTT: thôn Trung Bạn, thị trấn C, huyện YP 128.260.000đ, rút 1.700.000đ tiền mặt chi tiêu cá nhân, còn 40.000đ để lại trong tài khoản. Sau đó, HA thay đổi lời khai, không thừa nhận sử dụng 370.000.000đ để đánh bạc mà chuyển khoản cho anh Võ Minh H (không rõ năm sinh, địa chỉ) vay theo các tài khoản ngân hàng mà anh H yêu cầu. Sau khi chuyển tiền cho anh H, HA không liên lạc được với anh H và anh H cũng chưa trả HA số tiền trên. Bản thân HA không biết Võ Minh H là ai, không biết địa chỉ cư trú của anh H ở đâu, chỉ quen biết và nói chuyện với anh H qua mạng zalo.

Ngày 14/12/2021, chị C cùng chị H, bà Nguyễn Thị H1 đến nhà mẹ đẻ của HA là bà Nguyễn Thị Kim ở thôn Mẫn Xá, xã Văn Môn, huyện YP gặp HA để đòi tiền thì HA đề nghị chị C cho HA trả dần mỗi tháng 5.000.000đ nhưng chị C không đồng ý mà yêu cầu trả luôn và ngay một lần toàn bộ số tiền 500.000.000đ. Ngày 16/3/2022, chị C làm đơn trình báo Cơ quan điều tra.

Ngày 06/7/2022, chị C giao nộp cho CQĐT 01 USB chứa 13 file ghi âm giữa chị C với HA và giữa HA với chị Nguyễn Thị Vân, sinh năm 1987, HKTT: Chung cư CT1A, P1409, BTL Thủ đô, phường Y, quận H1 Đông, H1 Nội thể hiện việc trao đổi vay tiền giữa HA với chị C.

Tại kết luận giám định số 4913/KL-KTHS ngày 12/7/2022 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an kết luận: "Không phát hiện thấy dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung các file ghi âm mẫu cần giám định. Tiếng nói của người phụ nữ ký hiệu "HA" trong bản dịch file ghi âm ký hiệu từ A1 đến A13 và tiếng nói của Mẫn Thị HA trong mẫu so sánh là của cùng một người. Tiếng nói của người phụ nữ ký hiệu "C" trong bản dịch file ghi âm ký hiệu từ A1 đến A11 và tiếng nói của Nguyễn Thị C trong mẫu so sánh là của cùng một người. Tiếng nói của người phụ nữ ký hiệu "Vân" trong bản dịch file ghi âm ký hiệu A12, A13 và tiếng nói của Nguyễn Thị Vân trong mẫu so sánh là của cùng một người". Nội dung của 13 file ghi âm trên đã được chuyển hóa thành văn bản.

* Tại công văn số 2804/CV-TVN2022 ngày 28/4/2022 của Công ty TOTO, chi nhánh Hưng Yên nêu rõ:

+ Công ty TOTO không có nghiệp vụ mua bán nhôm thỏi.

+ Công ty TOTO có nhân viên tên Phạm Thị Nh và Lê Quang L làm việc ở bộ phân kho của Công ty, không có nhân viên nào tên Huỳnh làm việc ở bộ phận kho và nhân viên tên T làm ở bộ phận bảo vệ. Số điện thoại 0329.123.xxx và 0866.928.XXX không phải số điện thoại của nhân viên tên Nh hay của Công ty TOTO, chi nhánh Hưng Yên.

+ Ngày 24/11/2021, nhân viên Lê Quang L có làm việc tại Công ty TOTO chi nhánh Hưng Yên, nhân viên Phạm Thị Nh mới làm việc từ đầu năm 2022.

Làm việc với đại diện Công ty ToTo V Nam, chi nhánh Hưng Yên xác định: Từ trước đến nay, Công ty ToTo không bán lô hàng nhôm thỏi giá 5.476.000.000đ cho Mẫn Thị HA. Công ty ToTo cũng không quen biết hay gặp mặt Mẫn Thị HA. Hiện Công ty ToTo chỉ kinh doanh các mặt hàng thiết bị vệ sinh và khong bán mặt hàng gì liên quan đến nhôm. Đối với các hợp đồng của Công ty ToTo khi bán ra thì người ký hợp đồng là người đại diện theo pháp luật của Công ty hoặc người được ủy quyền. Công ty ToTo chỉ ký hợp đồng bán hàng giữa Công ty với Công ty, không ký hợp đồng với cá nhân.

Làm việc với anh Lê Quang L, sinh năm 1981, HKTT: Tổ dân phố Đại Đồng, phường Thuỵ Phương, quận Bắc Từ Liêm, TP H1 Nội xác định: Anh L không quen biết gì với HA. Bản thân HA cũng khẳng định: HA không có quan hệ quen biết gì với anh L, thời điểm HA nói với chị C về anh L là do HA bịa ra để chị C tin tưởng giao tiền cho HA vay.

Tại công văn số 889/CNVTQĐ-TTKT ngày 15/4/2022 của Tập đoàn công nghiệp viễn thông quân đội Viettel cung cấp thông tin và lịch sử giao dịch của 02 số điện thoại mà HA cho chị C và nói là số điện thoại của chị Nh làm ở bộ phận kho của Công ty ToTo xác định: Số điện thoại 0329123xxx, chủ thuê bao Công ty TNHH Thương Mại Dịch Vụ Senbac, địa chỉ: L17-11, tầng 17, toà nhà Vincom Center, số 72 Lê Thành Tôn, phường Bến Nghé, Quận 1, TP Hồ Chí Minh; Còn số điện thoại 08XXX28XXX không xác định được chủ thuê bao.

*Kết quả sao kê tài khoản của HA xác định: Ngày 21/11/2021, chị C chuyển khoản 500 triệu đồng vào tài khoản ngân hàng Viettinbank số 103873698xxx của HA, HA đã chuyển khoản số tiền 100 triệu vào tài khoản 0351001243xxx mở tại ngân hàng Vietcombank và 400 triệu vào tài khoản 19036829599xxx mở tại ngân hàng Techcombank đều mang tên Mẫn Thị HA.

Số tiền 100.000.000đ trong tài khoản Vietcombank số 0351001243xxx được HA chuyển 50.000.000đ đến tài khoản Vietcombank số 0031000385513, chủ tài khoản: Đỗ Huyền Th sinh năm 1981, HKTT: thôn Phúc Xá, xã Đoàn Xá, huyện KT, TP HP và chuyển 50.000.000đ đến tài khoản Vietcombank số 0451000503xxx, chủ tài khoản: Lương Văn T, sinh năm 1996, HKTT: xã N, huyện TC, tỉnh NA.

Số tiền 400.000.000đ trong tài khoản Techcombank số 19036829599xxx đượcHA sử dụng 60 triệu đồng chuyển khoản quay lại tài khoản ngân hàng Vietinbank 103873698xxx của HA, cùng với số tiền 70 triệu đồng do tài khoản mang tên Vũ Thị Hằng chuyển đến, HA đã chuyển khoản 128.260.000đ vào tài khoản số 104870259278, chủ tài khoản Phan Thị Oanh, sinh năm 1996, HKTT: thôn Ân Quang, xã Tây Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Sau đó, tài khoản này của Phan Thị Oanh chuyển khoản đến tài khoản số 2604205018xxx, chủ tài khoản Nguyễn Thị H, sinh năm 1967, HKTT: thôn T, thị trấn C, huyện YP số tiền 128.260.000đ để trả nợ cho bà H1. Số tiền 340.000.000đ còn lại, HA chuyển 70.000.000đ đến tài khoản Vietcombank số 970436681692017015, chủ tài khoản: H1 Thị Hồng (BL 699, 805); chuyển 70.000.000đ đến tài khoản Vietcombank số 9704366815991xxx011, chủ tài khoản Nguyễn Thị H; chuyển 130.000.000đ đến tài khoản Vietcombank số 97043668081xxx69031, chủ tài khoản: Trần Đức Trung và chuyển 70.000.000đ đến tài khoản Vietcombank số 970436681590xxx9011, chủ tài khoản: Sầm Minh Q.

Quá trình điều tra, đến nay xác định: Tài khoản Ngân hàng VietcomBank số 0351001243xxx của HA hiện có số dư 555.328.206đ. Tiến hành làm việc, HA trình bày số tiền trên do người tên Võ Minh H trả nợ HA. Bản thân HA chưa có quan điểm xử lý đối với số tiền này. Ngày 08/11/2022, Cơ quan điều tra đã tiến hành phong toả số tiền 500.000.000đ trong tài khoản ngân hàng trên của HA để phục vụ việc giải quyết vụ án.

*Về trách nhiệm dân sự: Đến nay, HA chưa trả tiền cho chị H, chị H yêu cầu HA phải trả lại cho chị đủ số tiền 500.000.000đ đã chiếm đoạt và xử lý HA theo quy định của pháp luật.

*Cùng với đơn của chị C, Cơ quan điều tra còn tiếp nhận đơn của chị Nghiêm Thị H sinh năm 1983, HKTT: Phố C, thị trấn C, huyện YP, tỉnh C tố giác HA có hành vi Lừa đảo chiếm đoạt của chị H số tiền 2.700.000.000đ: Quá trình điều tra đến nay xác định: Giao dịch giữa chị H với HA là giao dịch dân sự (quan hệ vay nợ giữa hai bên) và đã được chốt nợ bằng biên bản thỏa thuận đề ngày 14/12/2021. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị H 01 biên bản thoả thuận ghi ngày 14/12/2021; 01 điện thoại Iphone 7 Plus màu vàng; 01 điện thoại Iphone 6 Plus, màu vàng hồng lắp sim số 0936857xxx theo quy định.

Tại Cơ quan điều tra, bị can Mẫn Thị HA đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu ở trên.

Với nội dung trên, Cáo trạng số 154/CT-VKS-P2 ngày 30/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C đã truy tố Mẫn Thị HA về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo trình bày ngày 21/11/2021 bị cáo đã nói dối việc mua hàng nhôm thỏi của Công ty ToTo V Nam trị giá hơn 5 tỷ đồng để chị C tin tưởng và giao số tiền 500 triệu đồng cho bị cáo qua chuyển khoản. Sau khi nhận được tiền của chị C bị cáo đã đánh bạc và trả nợ hết. Nay trong tài khoản cá nhân của bị cáo còn hơn 500 triệu đồng bị cáo xin tự nguyện khắc phục để trả lại toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt của chị C là 500 triệu đồng. Bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội, không oan, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại là chị Nguyễn Thị C trình bày: Yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền 500 triệu đồng đã chiếm đoạt của chị và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người làm chứng chị Nghiêm Thị H trình bày: Chị không hướng dẫn bị cáo HA nói dối chị C để vay được tiền của chị C. Quá trình điều tra chị cũng đã được cơ quan điều tra cho chị xem tin nhắn Zalo, chị khẳng định không phải tin nhắn của chị nói chuyện với bị cáo HA.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội giữ nguyên tội danh Cáo trạng truy tố. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị HĐXX tuyên bố Mẫn Thị HA phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 BLHS, xử phạt bị cáo Mẫn Thị HA từ 10 năm đến 11 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 18/8/2022.

Về hình phạt bổ sung: đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo HA phải trả lại 500.000.000đ cho chị Nguyễn Thị C.

Đề nghị tiếp tục duy trì lệnh phong toả tài khoản của bị cáo HA để đảm bảo thi hành án.

Người bào chữa của bị cáo HA phát biểu: Nhất trí về tội danh và khung hình phạt như cáo trạng truy tố. Tuy nhiên, đề nghị HĐXX xem xét bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, không có tình tiết tăng nặng, quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo tự nguyện dùng số tiền 500 triệu đồng trong tài khoản cá nhân của bị cáo để bồi thường cho chị C và được chị C xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy, mức án Viện kiểm sát đề nghị từ 10 đến 11 năm tù là quá cao, đề nghị HĐXX xem xét xử phạt bị cáo từ 8 đến 9 năm tù là phù hợp.

Bị cáo Mẫn Thị HA nhất trí với ý kiến bào chữa của luật sư và không bổ sung gì thêm.

Bị hại là chị Nguyễn Thị C có ý kiến đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hìh phạt cho bị cáo.

Đối đáp với ý kiến của Luật sư và bị hại, đại diện Viện kiểm sát nhất trí và đề nghị HĐXX xem xét xử phạt bị cáo từ 9 đến 10 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng: Đối với hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh: Tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã hoàn toàn khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra tiến hành thu thập, đã có đủ cơ sở kết luận: Do cần tiền chi tiêu và trả nợ, ngày 21/11/2021, Mẫn Thị HA đã đưa ra thông tin gian dối với chị Nguyễn Thị C về việc HA đặt lô nhôm thỏi trong Công ty ToTo V Nam Chi nhánh Hưng Yên với giá trị lô hàng là 5.476.000.000đ nhưng do lô nhôm thỏi không đảm bảo nên phải trả lại cho Công ty ToTo, muốn lấy được tiền ra thì phải nộp tH 10% giá trị lô hàng và tiền hoa hồng cho Công ty. HA hỏi vay 500.000.000đ của chị C. Tin tưởng HA, cùng ngày 21/11/2021, chị C đã chuyển khoản cho HA vay số tiền 500.000.000đ. Sau khi nhận được tiền chị C chuyển cho, HA đã chiếm đoạt, sử dụng để trả nợ và sử dụng vào việc cá nhân hết. Đến nay, HA chưa bồi thường gì cho chị C. Do vậy, HĐXX nhận thấy có đủ căn cứ để xét xử Mẫn Thị HA về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS như Cáo trạng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

H1nh vi phạm tội của bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. H1nh vi của bị cáo cần xử lý nghiêm theo pháp luật hình sự mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3]. Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, HĐXX thấy:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Tại phiên toà hôm nay, bị cáo xin tự nguyện được dùng số tiền 500 triệu đồng trong tài khoản của bị cáo để bồi thường khắc phục hậu quả cho chị C và được bị hại là chị Nguyễn Thị C xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS.

HĐXX xét thấy, bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối đưa các thông tin giả làm cho chị C tin tưởng nhằm chiếm đoạt số tiền rất lớn, bị cáo đã dùng số tiền đó đánh bạc và chi tiêu cá nhân hết, vì vậy cần có hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới có thể giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện. Tuy nhiên, HĐXX xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS. Do vậy, cần mở lượng khoan hồng áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt như đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà hôm nay là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà hôm nay là phù hợp.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Mẫn Thị HA phải trả lại số tiền đã chiếm đoạt của chị C là 500.000.000đ.

[5]. Về phong toả tài khoản: Đối với số tiền 500.000.000 đồng trong tài khoản cá nhân của bị cáo Mẫn Thị HA, cơ quan cảnh sát điều tra đã ra lệnh phong toả số tiền này, tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tiếp tục duy trì Lệnh phong toả số tiền 500 triệu đồng trong tài khoản của bị cáo Mẫn Thị HA là phù hợp.

[6]. Vấn đề liên quan trong vụ án:

Theo HA trình bày: Toàn bộ nội dung liên quan đến việc mua bán nhôm thỏi trong Công ty ToTo mà HA nói với chị C là do chị H hướng dẫn HA nói dối chị C để vay được tiền. Tuy nhiên, HA không có tài liệu gì để chứng minh. Do vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý chị H như lời khai của HA.

Vể nội dung ban đầu HA khai sử dụng 370 triệu đồng vay được của chị C để đánh bạc trên trang game “tjb15.net”, hiện nay Cơ quan điều tra chưa chứng minh được hành vi đánh bạc theo lời khai của HA. Cơ quan điều tra tách tài liệu có liên quan để tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với các chủ tài khoản ngân hàng có liên quan đến việc nhận tiền của HA gồm H1 Thị Hồng, Trần Đức Trung, Sầm Minh Q, Cơ quan điều tra đã uỷ thác cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiếp tục xác minh. Đến nay, Cơ quan điều tra chưa nhận được kết quả uỷ thác điều tra cũng như sao kê tài khoản ngân hàng của các chủ tài khoản. Cơ quan điều tra tách hành vi có liên quan đến các chủ tài khoản ngân hàng để tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xem xét xử lý sau.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Mẫn Thị HA phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt: Bị cáo Mẫn Thị HA 9 (Chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/8/2022.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam bị cáo Mẫn Thị HA 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 BLHS; Điều 584, 589 Bộ luật dân sự:

Buộc bị cáo Mẫn Thị HA phải trả cho chị Nguyễn Thị C 500.000.000 (Năm trăm triệu) đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành thì hàng tháng phải chịu một khoản lãi của số tiền chậm thi hành án theo quy định tại điều 468 Bộ luật dân sự, tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Áp dụng Điều 130 BLTTHS: Quyết định tiếp tục duy trì Lệnh phong toả số 13/LPT-PC02 ngày 08/11/2022 của Cơ quan CSĐT Công an tỉnh C đối với số tiền 500.000.000 đồng trong tài khoản số 0351001243xxx mở tại Ngân hàng VietcomBank, chi nhánh C để đảm bảo thi hành án.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Mẫn Thị HA phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 06/2023/HS-ST

Số hiệu:06/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về