Bản án về tội hủy hoại tài sản số 43/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BÌNH MINH, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 43/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bình Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 34/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2021/QĐXXST- HS ngày 19 tháng 8 năm 2021 đối với Bị cáo:

Trương Ngọc L, sinh năm 1989 tại M, Vĩnh Long; Nơi thường trú: Ấp H 1, xã H, thị xã M, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn T và bà Nguyễn Thị N; Chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Chưa có tiền án, tiền sự.

Bị cáo đang được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Nguyễn Anh K, sinh năm: 1980 Địa chỉ: Số 60, khóm T, phường H, thành phố L, tỉnh Vĩnh Long, vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Lý Chí T, sinh năm: 1986 Địa chỉ: Ấp M, xã B, huyện H, tỉnh Đồng Tháp, vắng mặt.

2. Chị Dương Thị Trúc V, sinh năm: 1981, vắng mặt

Người đại diện hợp pháp của chị Dương Thị Trúc V: Anh Nguyễn Anh K, sinh năm: 1980 (Theo giấy ủy quyền ngày 21/6/2021) Cùng địa chỉ: Số 60, khóm T, phường H, thành phố L, tỉnh Vĩnh Long.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1973, vắng mặt

2. Chị Phan Thị T, sinh năm: 1983, vắng mặt

3. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1978, vắng mặt Cùng địa chỉ: Ấp H 1, xã H, thị xã M, tỉnh Vĩnh Long.

4. Anh Nguyễn Văn Út T, sinh năm: 1981 Địa chỉ: Ấp Q, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ ngày 01/4/2021, Trương Ngọc L tổ chức uống bia, rượu (nhậu) cùng với bạn bè tại nhà ở ấp H 1, xã H, thị xã M, tỉnh Vĩnh Long. Đến 13 giờ cùng ngày L nghỉ nhậu lấy xe mô tô chạy lên khu vực dạ cầu Cần Thơ tìm người quen là Chú T để gặp nói chuyện riêng. Khi L điều khiển xe đến đoạn đường thuộc ấp H 1, xã H, thị xã M thì va chạm giao thông với xe mô tô biển số 64K6-0189 (nhãn hiệu ATTILA) do anh Lý Chí T điều khiển nhưng không ai bị thương tích và hư hỏng phương tiện. S au khi va chạm giao thông L và anh T cự cãi với nhau về phần lỗi khi tham gia giao thông thì được người dân xung quanh đó can ngăn ra. Sau đó, anh T điều khiển xe chạy về Công ty Trách nhiệm hữu hạn vật tư xây dựng Thuận P (thuộc ấp H 1, xã H, thị xã M, tỉnh Vĩnh Long - nơi anh T làm việc) để trả xe cho anh Nguyễn Anh K (vì xe này anh T mượn của anh K). L điều khiển xe rượt theo anh T, khi đến quán cà phê của chị Phan Thị T thì L xuống xe chạy vào quán lấy 01 con dao đang để trên nắp lu trong quán. L cầm con dao trên tay điều khiển xe bằng một tay còn lại chạy vào Công ty Thuận P tìm anh T để chém. Khi đến Công ty Thuận P, L đậu xe bên ngoài cửa rào rồi xuống xe đi bộ vào khu vực Công ty cầm dao rượt chém anh T. Anh T thấy L cầm dao liền bỏ chạy nên L không chém được nên L bỏ đi về. Sau đó khoảng 10 phút L cầm dao quay lại Công ty Thuận P tìm anh T nhưng anh T đã chạy trốn. Khi đi ra về thì L nhìn thấy chiếc mô tô nhãn hiệu ATTILA mà anh T điều khiển đang đậu cặp hông Công ty, nghĩ là xe của anh T nên L cầm dao chém nhiều nhát vào xe rồi lên xe chạy đi. Anh K thấy vậy nên kêu công nhân ra dẫn xe ATTILA vào xưởng khóa cửa lại.

Trên đường đi về L nảy sinh ý định đốt xe ATTILA của anh T nên L ghé vào tiệm tạp hóa của anh Nguyễn Văn T ở ấp H 1, xã H mua một bịch xăng (dung tích 01 lít) rồi quay lại Công ty Thuận P để đốt xe. L trèo rào vào trong xưởng của Công ty đến chổ xe ATTILA biển số 64K6-0189 đang đậu đổ hết bịch xăng lên xe rồi dùng hột quẹt mang theo trong người bật lửa đốt xe làm xe cháy trụi hoàn toàn (chỉ còn khung xe), sau đó L bỏ về nhà. Anh K phát hiện xe ATTILA biển số 64K6-0189 bị cháy nên kêu công nhân của Công ty chửa cháy, sau đó anh Kiệt trình báo Công an xã H.

Căn cứ kết luận định giá tài sản số 17/KL.ĐGTS ngày 12/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã M kết luận: Xe mô tô nhãn hiệu ATTILA biển số 64K6-0189 bị hủy hoại hoàn toàn có giá trị 7.875.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số: 36/CT-VKSBM ngày 19/7/2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã M đã truy tố Bị cáo Trương Ngọc L về tội “Hủy hoại tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 178 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã M giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên Bị cáo Trương Ngọc L phạm tội “Hủy hoại tài sản”, áp dụng điểm d khoản 2 Điều 178, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015(sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt Bị cáo Trương Ngọc L từ 09 tháng đến 01 năm tù. Về trách nhiệm dân sự, Bị hại Nguyễn Anh K không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy khung xe và giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 64K6-0189.

- Bị cáo Trương Ngọc Li khai nhận Cáo trạng đã nêu đúng hành vi phạm tội của Bị cáo. Lời nói sau cùng, Bị cáo ăn năn hối cải, xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa hôm nay, anh Nguyễn Anh K, anh Lý Chí T, chị Dương Thị Trúc V, anh Nguyễn Văn T, chị Phan Thị T, anh Nguyễn Văn T, anh Nguyễn Văn Út T đã được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Giấy triệu tập nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do. Xét thấy quá trình điều tra các đương sự này đã có lời khai đầy đủ tại Cơ quan điều tra, sự vắng mặt của các đương sự này không ảnh hưởng đến việc xét xử Bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ theo Điều 292, Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[2] Lời khai nhận tội của Bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với Biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, Biên bản thu hồi tang vật, Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, Biên bản kết luận định giá tài sản, các Biên bản ghi lời khai, Biên bản hỏi cung Bị can tại Cơ quan điều tra, lời khai của Bị hại, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, lời khai của Người làm chứng cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ để xác định vào ngày 01/4/2021, do mâu thuẫn nhỏ nhặt với anh Lý Chí T nên Bị cáo Trương Ngọc L đã dùng xăng là chất nguy hiểm về cháy, nổ đốt cháy toàn bộ xe mô tô nhãn hiệu ATTILA biển số 64K6-0189 của anh Nguyễn Anh Kt, giá trị của chiếc xe theo kết luận định giá là 7.875.000 đồng. Hành vi của Bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Hủy hoại tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 178 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Hành vi của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của người khác, gây tác động xấu đến trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trong khi giữa Bị cáo và anh T, anh K không có mâu thuẫn trước đó, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt với anh Tính mà Bị cáo đã dùng xăng đốt cháy toàn bộ chiếc xe mô tô nhãn hiệu ATTILA biển số 64K6-0189 của anh K, điều này thể hiện bản chất côn đồ của Bị cáo. Do vậy, cần phải áp dụng một hình phạt tương xứng mới đảm bảo tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, Bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, Bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả cho Bị hại, Bị hại cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho Bị cáo nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho Bị cáo theo điểm b, s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bên cạnh đó, bản thân Bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú ổn định nên không cần phải cách ly Bị cáo ra khỏi xã hội nhưng phải phạt bổ sung bằng tiền mới đảm bảo tính răn đe.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Anh K đã được bồi thường bằng một chiếc xe mô tô khác, không yêu cầu Bị cáo bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét.

[4] Về xử lý vật chứng: Đối với khung xe mô tô nhãn hiệu ATTILA biển số 64K6-0189 hiện không còn giá trị sử dụng, anh K cũng không yêu cầu được nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô nêu trên do không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Buộc Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố Bị cáo Trương Ngọc L phạm tội “Hủy hoại tài sản”.

1. Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 178, Điều 38, điểm b, s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm d khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt:

Bị cáo Trương Ngọc L 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 (Ba) năm được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 27/9/2021.

Giao Bị cáo Trương Ngọc L cho Ủy ban nhân ân xã H, thị xã M, tỉnh Vĩnh Long để giám sát, giáo dục.

Trong thời gian thử thách, nếu Bị cáo thay đổi nơi cư trú sẽ thực hiện theo Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu Bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc Bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.

Buộc Bị cáo Trương Ngọc L nộp phạt bổ sung 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

2. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (Một) xe mô tô bị cháy hoàn toàn chỉ còn khung xe theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 22/02/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bình Minh.

Trúc V.

- 01 (Một) giấy đăng ký mô tô, xe máy số 0102774 tên chủ xe Dương Thị

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tỏa án.

Buộc Bị cáo Trương Ngọc L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội hủy hoại tài sản số 43/2021/HS-ST

Số hiệu:43/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bình Minh - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về