Bản án về tội giết người số 239/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 239/2023/HS-PT NGÀY 28/06/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 28 tháng 6 năm 2023, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai theo hình thức trực tuyến giữa điểm cầu trung tâm tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng với điểm cầu thành phần tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk; xét xử vụ án hình sự thụ lý số 171/2023/TLPT-HS ngày 18 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo Nông Văn T và đồng phạm về tội: “Giết người”.

Do bản án hình sự sơ thẩm số 13/2023/HS-ST ngày 13 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.

1. Họ và tên: Nông Văn T; giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh ngày 28 tháng 3 năm 2000, tại: tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Nùng; tôn giáo: Không; nơi cư trú: Thôn H, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Nông Văn T1, sinh năm 1971 (đã chết) và bà Nông Thị T2. Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22 tháng 9 năm 2022. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

2. Họ và tên: Hoàng Văn C; giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh ngày 24 tháng 3 năm 1997, tại: tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Nùng; tôn giáo: Không; nơi cư trú: Thôn H, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Hoàng Văn M và bà Triệu Thị Đ Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22 tháng 9 năm 2022. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

3. Họ và tên: Nông Văn H; giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh ngày 05 tháng 01 năm 1993, tại: tỉnh Đắk Lắk; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Nùng; tôn giáo: Không; nơi cư trú: Thôn H, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Nông Văn Đ1 (đã chết) và bà Lý Thị N; bị cáo có vợ là: H’ Nỗ Niê.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 22 tháng 9 năm 2022. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nông Văn T theo chỉ định:Luật sư Lê Công T3 – Văn phòng L, đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk. Địa chỉ: B N, P. T, Tp ., tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nông Văn H theo chỉ định: Luật sư Nguyễn Thị M1 – Công ty L1, đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk. Địa chỉ: B T, P. T, Tp ., tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn C theo chỉ định:Luật sư Y Ngun Ê – Văn phòng L2, đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk. Địa chỉ: A L, Phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 04 tháng 7 năm 2022, Nông Văn T (sinh năm 2000, trú tại thôn H, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk) đến nhà Hứa Thị T4 (sinh năm 2007) là người cùng thôn để chơi. Tại đây, T gặp Triệu Văn N1 (sinh năm 2000), Triệu Văn D (sinh năm 2000) và Triệu Văn T5 (sinh năm 2003), cùng trú tại thôn H, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, Triệu Văn T6 (sinh năm 2001), Triệu Văn C1 (sinh năm 1999), cùng trú tại thôn F, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk đang ngồi uống bia cùng với gia đình T4. Quá trình ngồi chơi, uống bia tại đây thì giữa T và T6 xảy ra mâu thuẫn, T đã dùng tay đánh vào mặt T6 và đe dọa: “Tí mày về coi chừng đấy, tao chặn tao đánh mày đấy!”, thì được mọi người can ngăn. Đến khoảng 21 giờ 00 cùng ngày, Triệu Văn D sợ khi về sẽ bị chặn đánh nên đã nhắn tin nhờ Triệu Văn P (sinh năm 2002, trú tại thôn F, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk) đến để đưa mọi người về. Sau đó, P cùng với Mông Văn C2 (sinh năm 2006, trú tại thôn E, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk), Hoàng Văn Q (sinh năm 2006); Triệu Văn K (sinh năm 2006), cùng trú tại xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk và Thi Văn H1 (sinh năm 2006, trú tại buôn T, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk) cùng chở nhau đi bằng 03 xe môtô đến đón nhóm của D. Khi thấy những người nêu trên đến, T nghĩ T6 gọi người đến đánh mình nên đã đi ra phía sau nhà T4 để đi tắt về nhà T lấy một con dao bằng kim loại có tổng chiều dài 33cm, giấu vào trong túi quần rồi điện thoại gọi cho La Văn C3 (sinh năm 1996, trú tại thôn H, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk) và nói C3 đến ngã 3 gần cầu T để đánh nhau thì C3 đồng ý. Sau đó, T đi bộ đến ngã 3 gần cầu thôn H thì gặp nhóm người gồm: Hoàng Văn C (sinh năm 1997), Thẩm Minh T7 (sinh năm 2004), Bế Văn H2 (sinh năm 1994), La Văn Đ2 (sinh năm 1998) và Nông Văn H (sinh năm 1993), cùng trú tại thôn H, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk đang đứng nói chuyện tại đây, số người này đều là bạn của T. Khi La Văn C3 đi xe môtô đến, T đã kể lại sự việc mâu thuẫn, xô xát giữa T và T6 tại nhà chị T4 cho mọi người cùng nghe. Cùng thời điểm này nhóm của anh D và anh P từ nhà chị T4 ra về đến khu vực cầu T, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk thì thấy nhóm của Nông Văn T đang đứng gần đó nên có gọi T ra nói chuyện để hòa giải. Tuy nhiên, khi nhóm của T đi lại gần thì nhóm của D và P bỏ đi về theo hướng thôn G, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk và đứng cách cầu T khoảng 150m. Tại đây nhóm của D và P nhặt đá ném về phía nhóm của T, sau đó cả nhóm chở nhau trên 06 xe môtô đi theo hướng thôn G, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk để về nhà, P được Triệu Văn N1 chở đi sau cùng. Lúc này, C, T, H và T7 đuổi theo được một đoạn thì thấy xe của Triệu Văn N1 bị tắt máy, nên nhóm của T chạy bộ đến. C chạy trước thấy N1 đang ngồi trên xe môtô, còn P đang đứng bên cạnh xe, nên C đã nhặt 01 cục đá ném trúng vào đầu của P và cầm cây gỗ dài khoảng 01m, đường kính khoảng 03cm đánh một phát vào lưng của N1, cùng lúc này Nông Văn T cầm dao chém 01 phát trúng vào gò má phải của Năm. Bị đánh Năm ôm cổ C vật xuống đất, thấy vậy T tiếp tục dùng dao chém 01 phát trúng vào đầu của N1. Trong lúc Năm ôm vật nhau với C, thì P dùng tay đánh vào mặt của C 02 cái. Lúc này T7 sử dụng một cây gỗ có kích thước dài khoảng 01m, đường kính khoảng 03cm cầm bằng hai tay đánh liên tiếp 02 cái vào lưng của P nên P bỏ chạy. T7 tiếp tục quay sang thấy N1 đang nằm dưới đất nên cầm cây gỗ đánh vào người của N1 01 cái. H cũng tham gia cầm 01 cây gỗ có kích thước dài khoảng 60cm, đường kính khoảng 02cm đến 03cm giơ lên đánh liên tiếp hai 02 phát vào người của Năm. Khi thấy N1 nằm bất tỉnh thì T, C, H và T7 dừng lại và bỏ về, trên đường đi về C và H ném 02 cây gỗ dùng để đánh N1 và P xuống suối cầu thôn H, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, còn T7 trên đường đi về đã ném cây gỗ vào ven lề đường. Riêng T đã mang con dao đã sử dụng để chém Năm về nhà mình cất sau đó đã giao nộp cho Cơ quan điều tra.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 616/TgT-TTPY, ngày 06 tháng 7 năm 2022 của Trung tâm Pháp y Sở Y tế tỉnh Đắk Lắk kết luận đối với thương tích của Triệu Văn N1: Vết thương (đã khâu, đang cố định bằng gạc cuộn), nằm dọc đỉnh sau bên trái, cách chân tóc trán trái 14cm, đầu dưới của vết thương cách tai trái 9cm, kích thước (6 x 0,1)cm, tỷ lệ: 2%; Vết thương (đã khâu) dọc gò má phải, hơi cong mở ra sau, kích thước (3 x 0,1)cm, tỷ lệ: 3%; Hai vết thương sau vai – cánh tay phải, từ trước ra sau: Vết thứ nhất hơi chéo trên ngoài vai phải, kích thước 2,5 x 0,3cm, tỷ lệ: 1%; Vết thứ hai song song với vết thứ nhất về phía sau 1cm, kích thước (4 x 0,2)cm, tỷ lệ: 1%; Nứt sọ đỉnh trái, tỷ lệ 9%; Gãy xương gò má cung tiếp phải, tỷ lệ 9%. Tỷ lệ phần trăm tổ thương cơ thể do thương tích sau khi tổng hợp là 23% (hai mươi ba phần trăm). Vật tác động: Vật sắc và vật tày có cạnh. Cơ chế hình thành thương tích: Vết thương (đã khâu, đang cố định bằng gạc cuộn), nằm dọc đỉnh sau bên trái; Rách cân Galea; Nứt sọ đỉnh trái do vật sắc tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ sau ra trước, từ trái qua phải. Vết thương (đã khâu) dọc gò má phải do vật sắc tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau. Hai vết thương sau vai – cánh tay phải do vật tày có cạnh tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ sau ra trước, từ phải qua trái. Kết luận khác: Vết xước da nông sau cánh tay phải kích thước (13 x 0,1)cm và vết xước da nông thành bụng phải, trên rốn, kích thước (10 x 0,1)cm chưa đủ cơ sở để đánh giá tỷ lệ tổn thương cơ thể. Tụ máu ngoài trục đỉnh trái + Tụ khí nội sọ trán đỉnh trái: Chưa đủ cơ sở để đánh gía tỷ lệ tổn thương cơ thể. Đề nghị giám định bổ sung khi bệnh nhận đã điều trị ổn định hay khi có phát sinh tình tiết mới.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích (bổ sung) số 616/TgT-TTPY, ngày 28 tháng 10 năm 2022 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk kết luận đối với thương tích của Triệu Văn N1: Tỷ lệ phần trăm tổ thương cơ thể do thương tích sau khi tổng hợp là 28% (hai mươi tám phần trăm).

* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 617/TgT-TTPY, ngày 06 tháng 7 năm 2022 của Trung tâm Pháp y Sở Y tế tỉnh Đắk Lắk đã kết luận đối với thương tích của Triệu Văn P: Vết thương giữa đỉnh trái, cách đường giữa 1,5cm, cách chân tóc trán trái 10,5cm, kích thước (1 x 0,3)cm, không khâu đang rỉ dịch, tỷ lệ 1%; Vết xước da nằm dọc mặt sau 1/3 trên cánh tay phải, kích thước (8 x 0,1)cm, tỷ lệ 2%; Các chấn thương sưng nề, bầm đỏ trong Bảng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích không có đánh giá tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể hay tỷ lệ tổn thương cơ thể là 0%. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 03%. Vật tác động: Vật tày cứng và vật tày có cạnh. Cơ chế hình thành thương tích: Vết thương giữa đỉnh trái do vật tày tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới. Vết xước da nằm dọc mặt sau 1/3 trên cánh tay phải do vật tày tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ sau ra trước, từ phải qua trái. Các tổn thương gây bầm đỏ vùng lưng, vùng gó ngoài xương bả vai trái do vật tày tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ sau ra trước. Vết bầm đỏ ngoài cánh tay trái do vật tày tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, từ trái qua phải. Vết bầm đỏ da hông lưng trái do vật tày tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ sau ra trước, từ trái qua phải. Vết bầm đỏ da lưng mông trái do vật tày tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ sau ra trước, từ trái qua phải. Vết sưng nhẹ xương bàn V bàn tay trái do vật tày tác động trực tiếp gây nên có chiều hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 13/2023/HSST ngày 13/3/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

1. Tuyên bố:

Tuyên bố các bị cáo Nông Văn T, Hoàng Văn C, Nông Văn H phạm tội “Giết người”.

- Áp dụng điểm n, khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15, khoản 3 Điều 57 của Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Nông Văn T 13 (mười ba) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 22/9/2022.

-Áp dụng điểm n, khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54; Điều 15, khoản 3 Điều 57 của Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn C 11 (mười một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 22/9/2022.

-Áp dụng điểm n, khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54; Điều 15, khoản 3 Điều 57 của Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Nông Văn H 10 (mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 22/9/2022.

Ngày 21/3/2023, bị cáo Nông Văn T kháng cáo xin giảm mức hình phạt. Ngày 22/3/2023, bị cáo Hoàng Văn C kháng cáo xin giảm mức hình phạt. Ngày 27/3/2023, bị cáo Nông Văn H kháng cáo xin giảm mức hình phạt. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của các bị cáo Nông Văn T, Hoàng Văn C, Nông Văn H có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và nằm trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.

Về nội dung đơn kháng cáo của bị cáo: Bản án hình sự sơ thẩm số:

13/2023/HSST ngày 13/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã xét xử các bị cáo Nông Văn T, Hoàng Văn C, Nông Văn H về tội “Giết người” theo điểm n, khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự và xử phạt bị cáo Nông Văn T 13 (mười ba) năm 6 (sáu) tháng tù, bị cáo Hoàng Văn C 11 (mười một) năm tù, bị cáo Nông Văn H 10 (mười) năm tù là đúng người, đúng tội. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 BLTTHS không chấp nhận kháng cáo của bị cáo giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa các bị cáo Nông Văn T, Hoàng Văn C, Nông Văn H thừa nhận: Ngày 04 tháng 7 năm 2022, tại thôn G, xã E, thị xã B, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo C đã có hành vi nhặt 01 cục đá ném trúng vào đầu của anh P và cầm cây gỗ dài khoảng 01m, đường kính khoảng 03cm đánh một phát vào lưng của N1. Bị cáo Nông Văn T cầm dao chém 01 phát trúng vào gò má phải của anh N1. Bị cáo H cầm 01 cây gỗ có kích thước dài khoảng 60cm, đường kính khoảng 02cm đến 03cm giơ lên đánh liên tiếp hai 02 phát vào người của Năm.

Tại kết luận giám định Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 616/TgT-TTPY, ngày 06 tháng 7 năm 2022 và Bản kết luận giám định pháp y về thương tích (bổ sung) số 616/TgT-TTPY, ngày 28 tháng 10 năm 2022 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk xác định: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích sau khi tổng hợp của anh P là 28% (hai mươi tám phần trăm).

Do đó, bản án hình sự sơ thẩm số: 13/2023/HSST ngày 13/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã xét xử bị cáo về các tội “Giết người” điểm n, khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo của các bị cáo thì thấy: Đây là vụ án có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của người khác gây hoang mang trong dư luận. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức và điều khiển hành vi nhưng chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt đã có hành vi dùng dao, cây gỗ và đá là các hung khí nguy hiểm tấn công vào vùng đầu, gò má và các vùng xung yếu khác trên cơ thể con người. Hành vi phạm tội của các bị cáo thể hiện tính chất côn đồ coi thường pháp luật. HĐXX sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tuyên buộc bị cáo Nông Văn T 13 (mười ba) năm 6 (sáu) tháng tù, bị cáo Hoàng Văn C 11 (mười một) năm tù, bị cáo Nông Văn H 10 (mười) năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên HĐXX không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

[3] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[4] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

 Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nông Văn T, Hoàng Văn C, Nông Văn H, giữa nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 13/2023/HS-ST ngày 13/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

Tuyên bố: Các bị cáo Nông Văn T, Hoàng Văn C, Nông Văn H phạm tội “Giết người”.

- Áp dụng điểm n, khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15, khoản 3 Điều 57 của Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt bị cáo Nông Văn T 13 (mười ba) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 22/9/2022.

- Áp dụng điểm n, khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54; Điều 15, khoản 3 Điều 57 của Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn C 11 (mười một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 22/9/2022.

- Áp dụng điểm n, khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54; Điều 15, khoản 3 Điều 57 của Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt bị cáo Nông Văn H 10 (mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 22/9/2022.

2. Án phí HSPT: Buộc các bị cáo Nông Văn T, Hoàng Văn C, Nông Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

78
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội giết người số 239/2023/HS-PT

Số hiệu:239/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về